Hoạt Động Trải Nghiệm, Hướng Nghiệp Cho Học Sinh Trung Học Phổ Thông


Tổ chức Văn hoá, Khoa học, Giáo dục của Liên Hợp Quốc (UNESCO) cũng cho rằng “Tâm điểm của mọi sự học là cách chúng ta xử lí những trải nghiệm có được, đặc biệt là sự chiêm nghiệm sâu sắc về những trải nghiệm đó”. UNESCO coi hình thức học tập trải nghiệm là một phương pháp học tập vì sự phát triển bền vững, coi người học là trung tâm.

Trung tâm giáo dục trải nghiệm Widehorizon (Chân trời rộng mở) ở thành phố London của nước Anh đã nghiên cứu và triển khai nội dung giáo dục hướng đến cho mỗi đứa trẻ đều có cơ hội trải nghiệm những tri thức về phiêu lưu mạo hiểm. Những khóa học và hoạt động về phiêu lưu - mạo hiểm sẽ làm cho các em học sinh hứng thú, kích thích, vui vẻ, cảm giác dễ chịu và các em học tập tốt hơn, trung tâm này có khá đầy đủ các phương tiện để tổ chức các hoạt động ngoài trời, hoạt động trải nghiệm và phiêu lưu - mạo hiểm. Ví dụ: về phương tiện: Phòng học, vườn/công viên; bếp; nơi đỗ xe; sân chơi; thiết bị đo thời tiết; khu hoang dã nhân tạo. Các hoạt động trải nghiệm: Muông thú; nghệ thuật và thiết kế; trường học về rừng; môi trường sống; các loài thú vật, cây cỏ; bản đồ và định hướng; thu gom vật liệu, phế thải; đất và đá; các mùa; nghề xây dựng... Như vậy, giáo dục trải nghiệm ở Anh cung cấp hàng loạt tình huống, bối cảnh đa dạng, phong phú cho học sinh và đòi hỏi phát triển, ứng dụng nhiều tri thức, kĩ năng trong chương trình, cho phép học sinh sáng tạo và tư duy; giải quyết vấn đề làm theo nhiều cách thức khác nhau nhằm đạt kết quả tốt hơn; cung cấp cho học sinh các cơ hội sáng tạo, đổi mới, dám nghĩ, dám làm.

Ở Hàn Quốc Viện nghiên cứu Khoa học Giáo dục Hàn quốc đã nghiên cứu chương trình Giáo dục trải nghiệm cho học sinh phổ thông, coi hoạt động trải nghiệm là một hoạt động tiến hành đồng thời với hoạt động dạy học các môn học. Hoạt động này được tiến hành xuyên suốt từ tiểu học đến THPT theo tỉ lệ từng cấp tiểu học, THCS, THPT là 13,4%, 9,1%, 11,8% so với thời lượng các môn học. Tuy nhiên, điểm quan trọng nhất trong nhà trường Hàn Quốc với hoạt động giáo dục trải nghiệm là hoạt động ngoại khóa sau các giờ học trên lớp, có mối quan hệ bổ sung, hỗ trợ cho hoạt động dạy học; được thực hiện nhằm mục tiêu đào tạo ra các thế hệ nhân tài có định hướng tương lai với sự phát triển toàn diện nhân cách và có sức sáng tạo; biết vận dụng một cách tích cực các kiến thức đã học vào thực tế; đồng thời biết chia sẻ và quan tâm tới mọi người xung quanh.


Những kinh nghiệm thực tiễn về giáo dục trải nghiệm cho học sinh ở một số nước phát triển là cơ sở quan trọng trong nghiên cứu và vận dụng vào việc tổ chức hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp cho học sinh phổ thông Việt Nam.

1.1.2. Các nghiên cứu trong nước

Ở nước ta, từ những ngày đầu tiên của nền giáo dục còn non trẻ, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội”. Đây cũng là nguyên lý giáo dục được ghi rõ trong Luật Giáo dục 2019.

Hội nghị Trung ương 8 khoá XI (2013) đã ra Nghị quyết về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam, trong đó chỉ rõ: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”.

Trong Chương trình giáo dục phổ thông 2018, hoạt động trải nghiệm với mục tiêu tạo cơ hội cho học sinh huy động tổng hợp kiến thức, kỹ năng của các môn học và lĩnh vực giáo dục khác nhau để trải nghiệm thực tiễn gia đình, nhà trường, xã hội; tham gia các hoạt động phục vụ cộng đồng và hoạt động hướng nghiệp dưới sự hướng dẫn, tổ chức của nhà giáo dục, qua đó hình thành những phẩm chất chủ yếu (yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm) và năng lực chung (năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo). Các năng lực chung hình thành và phát triển trong hoạt động trải nghiệm được thể hiện dưới các hình thức đặc thù: Năng lực thích ứng với cuộc sống, năng lực thiết kế và tổ chức hoạt động, năng lực định hướng nghề nghiệp.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

Để triển khai chủ trương của ngành và nhằm giúp các nhà trường trong việc quản lý, tổ chức các hoạt động trải nghiệm, đã có nhiều hội thảo, tập huấn và các nghiên cứu về vấn đề này.

Tiến sĩ Đỗ Ngọc Thống có nghiên cứu “Hoạt động trải nghiệm sáng tạo, kinh nghiệm quốc tế và vấn đề của Việt Nam” với những phân tích cụ thể và hữu ích về kinh nghiệm triển khai hoạt động trải nghiệm. Ngoài ra, còn có các tác giả khác cũng có những nghiên cứu về đề tài này như:

Quản lý hoạt động trải nghiệm hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông - 3


Năm 2009, tác giả Trần Thị Minh Huế nghiên cứu “Giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc cho sinh viên thông qua tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp”, tác giả đề cao vai trò của các hoạt động trải nghiệm thực tiễn đối với giáo dục đạo đức, truyền thống dân tộc cho sinh viên.

Năm 2014, tác giả Đinh Thị Kim Thoa nghiên cứu về tổ chức hoạt động giáo dục trong trường học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh đã khai thác vai trò của hoạt động trải nghiệm và các biện pháp tăng cường hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong các trường phổ thông.

Năm 2014, tác giả Lê Huy Hoàng nghiên cứu một số vấn đề về hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong chương trình giáo dục phổ thông mới đã nhấn mạnh vai trò của hoạt động trải nghiệm sáng tạo, đặc điểm của hoạt động trải nghiệm sáng tạo, con đường tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh phổ thông.

Năm 2015, tác giả Cù Huy Quảng đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp thạc sỹ với đề tài “Quản lý hoạt động giáo dục trải nghiệm ở trường THPT Chuyên Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ”…

Các nghiên cứu đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của hoạt động trải nghiệm nói chung và trải nghiệm sáng tạo nói riêng trong nhà trường. Trên địa bàn tỉnh Đắk Nông chưa có nghiên cứu nào chuyên sâu về quản lý hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp ở cấp THPT hoặc đưa ra các biện pháp để các hoạt động này thực sự hiệu quả, thường xuyên và không mang tính hình thức. Vì vậy mà tác giả luận văn chọn đề tài “Quản lý hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp cho học sinh THPT huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông” với mong muốn tiếp tục nghiên cứu để làm sáng rõ thêm các vấn đề lí luận và thực tiễn này.

1.2. Một số khái niệm cơ bản

1.2.1. Quản lý nhà trường

Quản lý là một hiện tượng xuất hiện rất sớm, là một phạm trù tồn tại khách quan được ra đời từ bản thân nhu cầu của mọi chế độ xã hội, mọi quốc gia, mọi thời đại. Thuật ngữ quản lý được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau dựa trên cơ sở những cách tiếp cận, lĩnh vực khác nhau. Theo Từ điển tiếng Việt phổ thông (2008) của nhà


xuất bản Phương Đông, quản lý là tổ chức điểu khiển hoạt động theo những yêu cầu nhất định.

Nhiều tác giả nước ngoài cũng đã có định nghĩa khác nhau về khái niệm quản lý:

Theo Kozlova O. V. và Kuznelsov I.N: “Quản lý là sự tác động có mục đích đến những tập thể con người để tổ chức phối hợp hoạt động của họ trong quá trình sản xuất” [13].

Theo Glushkov.A.A và Eitingon V.N: “Quản lý là một hoạt động đa diện phức tạp, bảo đảm sự phối hợp có chủ đích, sự ăn nhịp của lao động xã hội” [13].

Tereebnenko V.I cho rằng: “Quản lý tập hợp các biện pháp phối hợp nhằm đạt mục đích xác định” [13].

Có thể thấy, quản lý là hoạt động đặc biệt của con người trong xã hội, một hoạt động rất phức tạp và đa dạng. Đó là sự tác động toàn diện vào một nhóm người, một tập thể người, điều khiển họ hoạt động nhằm đạt tới mục đích nhất định đã được đề ra từ trước.

Trong luận văn này, chúng tôi quan niệm: Quản lý là một hoạt động đa diện phức tạp, là sự tác động liên tục, có kế hoạch, có tổ chức, có mục đích, hợp quy luật của chủ thể quản lý lên đối tượng và khách thể bị quản lý bằng công cụ và phương pháp quản lý nhằm cùng thực hiện mục tiêu chung.

Quản lý nhà trường là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý trường học, làm cho trường học vận hành theo đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng, thực hiện được mục tiêu kế hoạch đào tạo của nhà trường học, góp phần thực hiện mục tiêu chung của giáo dục: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Quản lý nhà trường bao gồm hai loại tác động quản lý: (1) tác động của những chủ thể quản lý bên trên và bên ngoài nhà trường, (2) tác động của chủ thể quản lý bên trong nhà trường.

Quản lý nhà trường do những tác động quản lý của các cơ quan quản lý giáo dục cấp trên nhằm hướng dẫn và tạo điều kiên cho hoạt động giảng dạy, giáo dục, học tập của nhà trường. Quản lý nhà trường cũng bao gồm những chỉ dẫn, quyết định của các thực thể bên ngoài nhà trường nhưng có liên quan trực tiếp tới nhà trường như cộng


đồng được đại diện dưới hình thức Hội đồng nhân dân, nhằm định hướng sự phát triển của nhà trường và hỗ trợ tạo điều kiện cho việc thực hiện phương hướng phát triển đó.

Quản lý nhà trường do chủ thể quản lý bên trong nhà trường (Hiệu trưởng) bao gồm các hoạt động: Quản lý giáo viên, quản lý học sinh, quản lý quá trình dạy học - giáo dục, quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học, quản lý tài chính trường học, quản lý lớp học như nhiệm vụ của giáo viên, quản lý quan hệ giữa nhà trường và cộng đồng.

Như vậy, quản lý nhà trường còn được coi là tập hợp những tác động tối ưu (cộng tác, tham gia, hỗ trợ, phối hợp, huy động, can thiệp) của chủ thể quản lý tới tập thể giáo viên, học sinh và cán bộ, công nhân khác trong nhà trường, cơ sở vật chất, phương tiện giáo dục nhằm tận dụng các nguồn lực do Nhà nước đầu tư, do xã hội đóng góp và do nhà trường tạo ra để hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà trường mà trọng tâm là hoạt động dạy học - giáo dục [1].

1.2.2. Hoạt động trải nghiệm

Trong Chương trình giáo dục phổ thông 2018, hoạt động trải nghiệm là hoạt động giáo dục được thực hiện bắt buộc từ lớp 1 đến lớp 12, ở tiểu học gọi là hoạt động trải nghiệm, ở trung học cơ sở và THPT gọi là hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp” [24]. Hoạt động này bao gồm các hoạt động thực tiễn được tiến hành song song với hoạt động dạy học và có mối quan hệ bổ sung, hỗ trợ cho hoạt động dạy học.

Theo Từ điển tiếng Việt, tác giả Hoàng Phê cho rằng “Hoạt động trải nghiệm là những gì con người đã kinh qua thực tế, từng biết, từng chịu” [22]. Qua hoạt động này, học sinh “Dựa trên sự huy động tổng hợp kiến thức và kỹ năng từ nhiều lĩnh vực giáo dục khác nhau để trải nghiệm thực tiễn đời sống nhà trường, gia đình, xã hội, tham gia hoạt động hướng nghiệp và hoạt động phục vụ cộng đồng dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, qua đó hình thành những phẩm chất chủ yếu, năng lực chung và một số năng lực thành phần đặc thù của hoạt động này như: năng lực thiết kế và tổ chức hoạt động, năng lực định hướng nghề nghiệp, năng lực thích ứng với những biến động trong cuộc sống và các kỹ năng sống khác” [30].

1.2.3. Hướng nghiệp

Theo Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Hướng nghiệp là hệ thống các biện pháp giúp đỡ học sinh làm quen tìm hiểu nghề, lựa chọn, cân nhắc nghề nghiệp với nguyện


vọng năng lực sở trường của mỗi người với nhu cầu và điều kiện thực tế khách quan của xã hội” [22]. Công tác hướng nghiệp có ý nghĩa kinh tế xã hội rất lớn giúp cho thanh niên có cơ hội phát huy được năng lực, nâng cao được hiệu quả lao động, say mê sáng tạo trong nghề nghiệp, mặt khác giúp tránh thay đổi nghề nghiệp nhiều lần, hạn chế các hậu quả xấu do nghề nghiệp không phù hợp mang lại.

- Theo tác giả Đặng Danh Ánh: “Hướng nghiệp là hệ thống các biện pháp của nhà nước và của xã hội giúp con người lựa chọn và xác định vị trí nghề nghiệp của mình trong cuộc sống trên cơ sở kết hợp nguyện vọng của cá nhân với nhu cầu xã hội” [2]. Khái niệm này được xuất phát từ lý luận và thực tiễn của giáo dục Việt Nam, tuy nhiên chưa xác định cụ thể các mối quan hệ giữa các lực lượng tham gia vào công tác hướng nghiệp.

- Trên bình diện xã hội có thể hiểu: Hướng nghiệp là một hệ thống tác động của xã hội về giáo dục học, y học, xã hội học, kinh tế học... nhằm giúp cho thế hệ trẻ chọn được nghề vừa phù hợp hứng thú, năng lực, nguyện vọng, sở trường của cá nhân, vừa đáp ứng được nhu cầu nhân lực của các lĩnh vực sản xuất trong nền kinh tế quốc dân.

Tóm lại, công tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông là một bộ phận trong công tác hướng nghiệp của toàn xã hội. Vì vậy, công tác hướng nghiệp trong trường phải thống nhất với công tác hướng nghiệp trong xã hội. Nhà trường của chúng ta có tính chất hướng nghiệp vì toàn bộ chương trình, nội dung, kế hoạch đào tạo, phương pháp đào tạo, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật trong nhà trường đều quán triệt và thể hiện tinh thần hướng nghiệp. Trong quá trình đào tạo ở trường phổ thông, học sinh đều chịu những tác động của hoạt động hướng nghiệp, đều được chuẩn bị sẵn sàng để tham gia lao động nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp THCS, THPT.

1.2.4. Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp

Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp là hoạt động giáo dục do nhà giáo dục định hướng, thiết kế và hướng dẫn thực hiện, tạo cơ hội cho học sinh tiếp cận thực tế, thể nghiệm các cảm xúc tích cực, khai thác những kinh nghiệm đã có và huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng của các môn học để thực hiện những nhiệm vụ được giao hoặc giải quyết những vấn đề của thực tiễn đời sống nhà trường, gia đình, xã hội phù hợp với lứa tuổi; thông qua đó, chuyển hoá những kinh nghiệm đã trải qua thành tri thức mới, hiểu


biết mới, kĩ năng mới góp phần phát huy tiềm năng sáng tạo và khả năng thích ứng với cuộc sống, môi trường và nghề nghiệp tương lai [8].

1.2.5. Quản lý hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp

Quản lý hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp trong nhà trường là một bộ phận không thể thiếu của nhiệm vụ quản lý giáo dục mà mọi cán bộ quản lý giáo dục đều thực hiện. Quản lý hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông là hệ thống những tác động có định hướng, có chủ đích, có kế hoạch và hợp quy luật của cán bộ quản lý giáo dục, thông qua hoạt động trải nghiệm nhằm hỗ trợ mọi cá nhân chọn lựa và phát triển chuyên môn nghề nghiệp phù hợp nhất với khả năng của học sinh.

Theo tiếp cận chức năng quản lý: Quản lý hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp trong trường THPT, bao gồm 04 hoạt động: Kế hoạch hóa; tổ chức; chỉ đạo và kiểm tra, đánh giá hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp .

1.3. Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông

1.3.1. Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp trong Chương trình giáo dục phổ thông 2018

Chương trình giáo dục phổ thông thực hiện mục tiêu giáo dục hình thành, phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh thông qua các nội dung giáo dục ngôn ngữ và văn học, giáo dục toán học, giáo dục khoa học xã hội, giáo dục khoa học tự nhiên, giáo dục công nghệ, giáo dục tin học, giáo dục công dân, giáo dục quốc phòng và an ninh, giáo dục nghệ thuật, giáo dục thể chất, giáo dục hướng nghiệp. Mỗi nội dung giáo dục đều được thực hiện ở tất cả các môn học và hoạt động giáo dục, trong đó có một số môn học và hoạt động giáo dục đảm nhiệm vai trò cốt lõi [8].

Căn cứ mục tiêu giáo dục và yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực ở từng giai đoạn giáo dục và từng cấp học, chương trình mỗi môn học và hoạt động giáo dục xác định mục tiêu, yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực và nội dung giáo dục của môn học, hoạt động giáo dục đó. Giai đoạn giáo dục cơ bản thực hiện phương châm giáo dục toàn diện và tích hợp, bảo đảm trang bị cho học sinh tri thức phổ thông nền tảng, đáp ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau trung học cơ sở; giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp thực hiện phương châm giáo dục phân hoá, bảo đảm học sinh được tiếp cận nghề nghiệp, chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng.


1.3.2. Đặc điểm của học sinh THPT

1.3.2.1. Đặc điểm cơ thể

Đây là thời kỳ bắt đầu ổn định về phát triển sinh lý, cơ thể hài hoà, cân đối. Hệ xương đã phát triển hoàn thiện, chiều cao và trọng lượng phát triển chậm lại và cơ bắp được tiếp tục phát triển. Sự phát triển của hệ thần kinh có những thay đổi quan trọng do cấu trúc bên trong của não phức tạp và các chức năng của não phát triển. Số lượng dây thần kinh liên hợp, liên kết các phần 20 khác nhau của vỏ não tăng lên… Hệ tuần hoàn đi vào hoạt động bình thường. Sự mất cân đối giữa tim và mạch đã chấm dứt.

1.3.2.2. Điều kiện xã hội

Các em đã có những mối quan tâm hơn về tương lai với những lựa chọn ngành, nghề. Trong gia đình, vai trò và trách nhiệm của học sinh THPT cũng đã dần được khẳng định khi bố mẹ trao đổi về những vấn đề trong gia đình. Ngoài xã hội, các em được tiếo xúc với nhiều tầng lớp xã hội, nhiều mối quan hệ xã hội hơn. Các em phải thực hiện nghĩa vụ của mình đối với xã hội: nghĩa vụ lao động, nghĩa vụ quân sự… Việc học tập ở trường cũng có những thay đổi về các môn học, cách thức tiếp cận, kiểm tra, đánh giá và yêu cầu đầu ra với kỳ thi tốt nghiệp và vào Đại học. Chính vì vậy, tính chủ động và hướng đích được phát triển mạnh ở tất cả các quá trình nhận thức trong giai đoạn này.

1.3.2.3. Đặc điểm hoạt động học tập của học sinh THPT

Nội dung học tập ở cấp THPT ngày một nhiều hơn và hoạt động học tập đi sâu vào những tri thức cơ bản, những quy luật của những bộ môn khoa học. Phương pháp giảng dạy của giáo viên cũng có nhiều thay đổi. Chính vì vậy, hoạt động học tập đòi hỏi các em phải có tính năng động, độc lập và sáng tạo ở mức độ cao hơn, phải phát triển tư duy lí luận. Thái độ và ý thức của các em đã tốt hơn, các em hiểu được rằng, vốn tri thức, kỹ năng, kỹ xảo là điều kiện cần thiết để các em bước vào cuộc sống tương lai. Do đó, nhu cầu tri thức của các em tăng lên một cách rõ rệt. Ở các em đã hình thành hứng thú học tập gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp.

1.3.2.4. Đặc điểm phát triển trí tuệ của học sinh THPT

- Tri giác: Tri giác của thanh niên có độ nhạy cảm cao, tri giác có mục đích đạt tới mức độ rất cao. Quan sát trở nên có hệ thống và toàn diện hơn. Quá trình quan sát đã chịu sự chi phối của hệ thống tín hiệu thứ hai nhiều hơn và không tách rời khỏi tư duy

Xem tất cả 114 trang.

Ngày đăng: 23/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí