Một Số Khái Niệm Cơ Bản Liên Quan Đến Đề Tài 69783

Canul và New England Associationof schools and colleges (2019) nghiên cứu tầm quan trọng của tự đánh giá đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. Nghiên cứu này nghiên cứu 2.171 các báo cáo KT của các trường phổ thông và phỏng vấn sâu 25 trường trong năm học 2007-2008, khẳng định KT giúp các trường nâng cao chất lượng dạy học, giáo dục của nhà trường. Nghiên cứu của Canul và Ribeiro, de Gusmão (2010) chỉ ra hạn chế của hoạt động tự KT rằng nhà trường còn đánh giá cao việc đạt được các chuẩn so với các báo cáo của đánh giá ngoài hay nhà trường chưa nhìn rõ các hạn chế của mình như đánh giá của đoàn đánh giá ngoài [39].

Về tác phẩm dịch có thể chú ý đến "Một số kinh nghiệm lãnh đạo của Hiệu trưởng" của XuKhômxki, dịch và xuất bản năm 1981. Có nêu vấn đề "Phân công giữa Hiệu trưởng và Phó hiệu trưởng chuyên môn trong công tác kiểm tra"

Tác giả RiGand trong tác phẩm "Xây dựng hệ thống thông tin phục vụ công tác lãnh đạo" do nhà xuất bản Hà Nội - 1984 có lưu ý đến việc phân cấp khi tổ chức công tác kiểm tra.

Từ một số nghiên cứu trên đây có thể thấy, hoạt động KTCM được các nhà quản lý giáo dục ở nước ngoài rất coi trọng. Công tác KTCM được đánh giá cao trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên, cũng như nâng cao chất lượng học tập của học sinh và việc KTCM được giáo viên cho rằng quan trọng hơn và có tác động nhiều hơn đến hoạt động của trường so với những cuộc kiểm tra từ bên ngoài (thanh tra). Đồng thời các nghiên cứu trên đây cũng cho thấy vai trò của Hiệu trưởng trong việc quyết định, tổ chức KTCM tại các nước này.

1.1.2. Nghiên cứu trong nước

Theo tác giả Đặng Quốc Bảo, trong mười năng lực mang tính học thuật của người HT thì có hai năng lực giám sát và KT trong quản lý giáo dục. Hai năng lực này hỗ trợ, bổ sung cho nhau và giúp cho người HT phát triển được cả cái tài, cái tầm trong điều hành nhà trường. Người có tài là người việc sai mà sửa được, việc xấu mà ngăn được, việc hỏng mà vớt được. Người có tầm là người chưa có việc mà biết việc sắp tới, mới có việc đã biết diễn biến của việc ra sao, triển khai việc mà dự đoán được kết quả cuối cùng. Năng lực KT giúp cho người HT phát triển được cái tài, còn năng lực giám sát giúp cho người HT phát triển được cái tầm trong điều hành nhà trường [2, tr 80].

Cuốn sách “Khoa học tổ chức và quản lý - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Trung tâm Nghiên cứu khoa học tổ chức quản lý do Nguyễn Văn Bình làm tổng chủ biên đã được NXB Thống kê ấn hành năm 1999 đã nêu rõ định nghĩa, công cụ, các nguyên tắc của quản lý và quản lý giáo dục và chỉ ra phương thức triển khai các chức năng cơ bản của quản lý và quản lý giáo dục. Đây là một trong những công trình khoa học mang tính cơ sở lý luận chung để vận dụng vào quản lý các hoạt động xã hội [4].

Cuốn sách “Cơ sở khoa học của quản lý giáo dục” của tác giả Nguyễn Minh Đạo do NXB Chính trị quộc gia ấn hành năm 1997 được những nhà quản lý coi như một cẩm nang của mình để triển khai các chức năng cơ bản của quản lý giáo dục các hoạt động xã hội nói chung. Các tri thức về quản lý trong công trình này có thể vận dụng vào quản lý hoạt động KTCM nói chung và trường THCS nói riêng [12].

Tác giả Hà Sỹ Hồ đã khẳng định: "Chức năng kiểm tra đặc biệt quan trọng vì quá trình quản lý đòi hỏi những thông tin chính xác, kịp thời về thực trạng của đối tượng quản lý, về việc thực hiện các quyết định đã đề ra, tức là đòi hỏi những liên hệ ngược chính xác, vững chắc giữa các phân hệ quản lý…Quản lý mà không kiểm tra thì quản lý sẽ ít hiệu quả và trở thành quản lý quan liêu" [17].

Vai trò công tác KT trong các cơ sở giáo dục đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu về QLGD. Theo tác giả Trần Kiểm, mục đích cuối cùng của KT là điều chỉnh quyết định quản lý nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu quản lý đã đề ra. Tuy nhiên, đây chỉ là mục đích tự thân của quản lý. Ngoài mục đích này, KT còn phải gắn với mục đích phát triển của tổ chức và cá nhân [21, tr.131]. KT không chỉ là điều chỉnh, mà KT còn là phát triển. KTCM nhà trường là chức năng quản lý cơ bản, là khâu đặc biệt quan trọng trong chu trình quản lý, đảm bảo tạo lập mối liên hệ ngược thường xuyên, kịp thời, giúp HT hình thành cơ chế điều chỉnh hướng đích trong quá trình quản lý nhà trường. KTCM nhà trường là một công cụ sắc bén góp phần tăng cường hiệu lực quản lý nhà trường nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Lãnh đạo mà không KT thì coi như không lãnh đạo [27, tr 86].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

Theo Nguyễn Ngọc Quang trong cuốn "Những khái niệm cơ bản về lý luận, quản lý giáo dục" cho rằng: “Quá trình quản lý diễn ra qua năm giai đoạn: chuẩn bị kế hoạch hoá; kế hoạch hoá; tổ chức; chỉ đạo và kiểm tra, trong đó, giai đoạn 5 - kiểm tra, là giai đoạn cuối cùng, kết thúc một chu trình quản lý. Kiểm tra giúp cho

việc chuẩn bị tích cực cho kỳ kế hoạch tiếp theo. Kiểm tra tốt, đánh giá được sâu sắc và chuẩn bị trạng thái cuối cùng của hệ (nhà trường) thì đến kỳ kế hoạch (năm học) tiếp theo việc soạn thảo kế hoạch năm học mới sẽ thuận lợi, kế thừa được các mặt mạnh để tiếp tục phát huy, phát hiện được lệch lạc để uốn nắn, loại trừ” [27]. Tác giả kết luận: “Như vậy, theo lý thuyết Xibecnêtic, kiểm tra giữ vai trò liên hệ nghịch trong quá trình quản lý. Nó giúp cho chủ thể quản lý điều khiển một cách tối ưu hệ quản lý. Không có kiểm tra, không có quản lý” [27]. Hiện nay các văn bản pháp quy đề cập đến hoạt động KTCM trường học chưa nhiều, các văn bản chỉ đạo của cơ quan quản lý giáo dục các cấp liên quan đến hoạt động thanh tra, KT giáo dục mới chủ yếu tập trung đề cập đến các hoạt động thanh tra giáo dục

Quản lý hoạt động kiểm tra chuyên môn ở các trường trung học cơ sở huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang - 3

Tác giả Phan Quốc Cường (2016) đã nghiên cứu đề tài “Biện pháp quản lý hoạt động KT chất lượng giáo dục ở các trường trung học cơ sở Huyện Đắc Tô tỉnh KonTum”. Tiếp cận nghiên cứu về quản lý hoạt động KT chất lượng giáo dục ở các trường trung học cơ sở được tiến hành trên góc độ là: Kế hoạch hoá hoạt động KT chất lượng giáo dục trường trung học cơ sở; Tổ chức thực hiện hoạt động KT chất lượng giáo dục; Chỉ đạo thực hiện hoạt KT chất lượng giáo dục; KT đánh giá hoạt động KT chất lượng giáo dục và đảm bảo các nguồn lực cho hoạt động KT chất lượng giáo dục. Từ cơ sở lý luận và hạn chế thực trạng, tác giả đã đưa ra một số biện pháp như: 1) Biện pháp nâng cao nhận thức cho cán bộ, GV về hoạt động KT; 2) Xây dựng kế hoạch hoạt động KT chất lượng giáo dục; 3) Hoàn thiện cơ cấu tổ chức thực hiện hoạt động KT; 4) Chỉ đạo thực hiện tốt hoạt động KT; 5) Nâng cao hiệu quả việc KT, đánh giá và tăng cường các điều kiện hỗ trợ hoạt động KT [10].

Tính đến nay đã có một số đề tài luận văn nghiên cứu về công tác KTCM trường học như: Nguyễn Ngọc Huynh với đề tài “Một số giải pháp quản lý nâng cao chất lượng hoạt động KTCM trường Trung học cơ sở ở huyện Quan Sơn Thanh Hóa”; Lại Thị Thanh Huyền với đề tài “Quản lý hoạt động KTCM ở các trường tiểu học thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc”; Nguyễn Trọng Văn với đề tài “Quản lý hoạt động KT nội bộ ở các trường THCS huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình theo yêu cầu đổi mới giáo dục” ... các tác giả đã đề cập đến một số vấn đề chung về công tác thanh tra giáo dục, KTCM trường học và các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý hoạt động KTCM tại cơ sở giáo dục.

Nghiên cứu về hoạt động KT nhưng ở tiến hành ở trường Cao đẳng là nghiên cứu của Lê Quốc Khanh (2016) trong đề tài “Biện pháp quản lý hoạt động KTCM ở Trường Cao đẳng Giao thông vận tải II”. Tiếp cận khía cạnh quản lý hoạt động KTCM trường Cao đẳng được tác giả phân tích trên các khía cạnh như: Lập kế hoạch hoạt động KTCM; Quản lý hoạt động KTCM; Quản lý việc thu thập thông tin, minh chứng; Quản lý việc xử lý, phân tích thông tin, minh chứng và đánh giá mức độ đạt được của các tiêu chí; Quản lý việc viết báo cáo các tiêu chuẩn và báo cáo tự đánh giá; Quản lý các điều kiện hoạt động KTCM. Trên cơ sở khảo sát thực trạng quản lý hoạt động KTCM ở Trường Cao đẳng Giao thông vận tải II tác giả đã chỉ ra hạn chế quản lý hoạt động KTCM như: Đội ngũ CB tham gia các hoạt động KTCM chưa được bồi dưỡng, đào tạo nghiệp vụ CM sâu. Việc xây dựng hệ thống các văn bản hướng dẫn và quy trình thực hiện hoạt động KTCM còn hạn chế. Công tác tuyên truyền của Nhà trường chưa được thường xuyên và rộng rãi. Công tác quản lý lưu trữ của một số đơn vị trong nhà trường và nhà trường chưa được khoa học làm khó khăn trong việc thu thập thông tin minh chứng. Đặc biệt, chưa có chế độ chính sách thoả đáng, chưa động viên kịp thời cho đội ngũ CB tham gia hoạt động KTCM. Theo tác giả để nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động KTCM cần thiết phải thực hiện các biện pháp như: “Nâng cao nhận thức cho GV, cán bộ, nhân viên về hoạt động KTCM và công tác hoạt động KTCM; Xây dựng kế hoạch thực hiện hoạt động KTCM phù hợp, khả thi; Tăng cường quản lý hoạt động của nhóm chuyên trách trong hoạt động KTCM; Đẩy mạnh công tác KT, giám sát thực hiện các quy trình hoạt động KTCM; Tăng cường các điều kiện đảm bảo và hỗ trợ cho hoạt động KTCM” [20].

Trong thời gian qua, đã có một số tài liệu, bài nghiên cứu liên quan đến hoạt động KTCM ở các trường phổ thông. Tuy nhiên, những nghiên cứu này đa phần được trình bày dưới dạng chuyên đề bồi dưỡng, các văn bản chỉ đạo hoặc các sáng kiến kinh nghiệm... Đối với các trường THCS huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang đến nay chưa có nghiên cứu nào đề cập đến công tác quản lý hoạt động KTCM. Do vậy, việc nghiên cứu và đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động KTCM nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở các trường THCS nói chung và trường THCS của huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang nói riêng là rất cần thiết.

1.2. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài

1.2.1. Quản lý

Theo F.W.Taylor (1856 - 1915): “Quản lý là biết chính xác các điều bạn muốn người khác làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất” [13].

Theo Harold Koontz, trong tác phẩm "Những vấn đề cốt yếu của quản lý": "Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó bảo đảm phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục tiêu của của mọi nhà quản lý là nhằm hình thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất" [16].

Theo Từ điển Tiếng việt của Viện Ngôn ngữ học do nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 1994: “Quản lý là trông coi, giữ gìn theo những yêu cầu nhất định, là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những điều kiện nhất định” [38].

Có rất nhiều định nghĩa và cách diễn đạt khác nhau về quản lý: Trần Kiểm trong cuốn Những vấn đề cơ bản của khoa học quản lý giáo dục đã viết “Quản lý là nghệ thuật hoàn thành công việc thông qua người khác” [21, tr.8]; “Quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra công tác của các thành viên trong tổ chức và sử dụng mọi nguồn lực sẵn có của tổ chức để đạt những mục tiêu của tổ chức” [21, tr.133].

Theo Trần Quốc Thành: “Quản lý là quá trình tác động có ý thức của chủ thể tới đối tượng quản lý để phối hợp các nguồn lực nhằm thực hiện mục tiêu của tổ chức trong điều kiệm môi trường biến đổi”[36].

Mỗi khái niệm nêu trên đều có một cách tiếp cận và trình bày khác nhau về vấn đề quản lý nhưng có thể khái quát: Quản lý là sự tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý trong tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt được mục tiêu đề ra. Hay nói một cách khác: Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng việc thực hiện các chức năng quản lý, lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và KT.

1.2.2. Quản lý Giáo dục

QLGD là một loại hình quản lý xã hội, tức là quản lý hoạt động giáo dục trong xã hội. Đã có một số định nghĩa tiêu biểu về QLGD.

Cụ thể, P.V.Khuđôminxky cho rằng: “Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có mục đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống giáo dục nhằm đặt mục đích đảm bảo việc giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, bảo đảm sự phát triển toàn diện và hài hòa của họ” [2]; Còn M.I.Kônđakôp khẳng định: “Quản lý giáo dục là tập hợp những biện pháp tổ chức cán bộ, giáo dục, kế hoạch hóa, tài chính, ... nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, bảo đảm sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về số lượng cũng như chất lượng”[2].

Theo tác giả Đặng Quốc Bảo “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quan là điều hành, phối hợp các lực lượng nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội. Ngày nay, với sứ mệnh phát triển giáo dục thường xuyên, công tác giáo dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà cho mọi người. Cho nên, QLGD được hiểu là sự điều hành hệ thống quốc dân”[2]; còn theo Nguyễn Ngọc Quang thì: “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục) nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” [28].

Như vậy, QLGD là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ thống giáo dục được quản lý, vận hành theo đúng đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng, thực hiện được các mục tiêu giáo dục đề ra. Các cấp quản lý giáo dục tồn tại không phải vì bản thân chúng, mà trước hết là phải vì chất lượng và hiệu quả hoạt động của nhà trường. Thành tích thực chất của trường học làm nên chất lượng giáo dục. Như vậy, chất lượng của giáo dục chủ yếu do chất lượng của nhà trường tạo nên. Chúng tôi thống nhất với khái niệm quản lý trường học của tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là tác động có ý thức, có kế hoạch và hướng đích của chủ thể quản lý (hiệu trưởng) đến khách thể quản lý (tập thể giáo viên, học sinh và các bộ phận khác), đến tất cả các mặt của đời sống nhà trường, nhằm đảm bảo sự vận hành tối ưu về các mặt kinh tế - xã hội, tổ chức sư phạm của quá trình dạy học và giáo dục thế hệ trẻ và thực hiện tốt sứ mạng của mình” [14].

1.2.3. Kiểm tra chuyên môn ở trường học

1.2.3.1. Kiểm tra chuyên môn

Kiểm tra là xem xét thực chất, thực tế sự việc; Là quá trình đo nghiệm giữa mục tiêu đề ra với trình độ đạt thực chất trên thực tế của đối tượng nhằm thu nhận thông tin ngược dựa trên cơ sở đó có thể điều khiển, điều chỉnh quá trình dạy học, giáo dục và quá trình quản lý. Đồng thời thông qua kết quả KT có thể giúp người dạy, người học và khách thể quản lý tự điều khiển, điều chỉnh quá trình học tập, công tác của mình.

Với khái niệm trên, KT là quá trình: Thu thập thông tin ngược; Tạo lập kênh thông tin phản hồi; Điều chỉnh thông tin; Tự điều chỉnh thông tin của đối tượng.

Kiểm tra chuyên môn là việc điều tra, theo dõi, xem xét, kiểm soát, phát hiện, kiểm nghiệm diễn biến và kết quả các hoạt động CM trong phạm vi cơ quan đơn vị được thực hiện bởi ban KTCM theo phân công của Hiệu trưởng, hoặc đoàn KT chuyên ngành theo Quyết định của Trưởng phòng GD&ĐT đối chiếu, so sánh các kết quả thực tế với kết quả dự kiến phải đạt được theo kế hoạch, qua đó có thể điều khiển, điều chỉnh quá trình quản lý nhằm nâng cao chất lượng CM và hiệu quả quản lý trong đơn vị [21].

1.2.3.2. Kiểm tra chuyên môn ở trường học:

Kiểm tra chuyên môn ở trường học là hoạt động nghiệp vụ quản lý của người Hiệu trưởng (thủ trưởng cơ sở giáo dục) nhằm điều tra, theo dõi, xem xét, kiểm soát, phát hiện, kiểm nghiệm sự diễn biến và kết quả các hoạt động giáo dục trong phạm vi nội bộ nhà trường hay trong nội bộ cơ sở giáo dục và đánh giá kết quả các hoạt động giáo dục có phù hợp với mục tiêu, kế hoạch, chuẩn mực, quy chế đề ra hay không? Qua đó kịp thời động viên, khích lệ các mặt tốt, điều chỉnh, uốn nắn những mặt chưa đạt chuẩn nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục - đào tạo của nhà trường, của cơ sở giáo dục. Nội dung KTCM là nội dung chủ đạo trong hoạt động kiểm tra nội bộ trường học của các nhà trường hay cơ sở giáo dục.

KTCM ở trường học, về thực chất gồm hai hoạt động:

- Hiệu trưởng tiến hành kiểm tra công việc, hoạt động, mối quan hệ của các thành viên, bộ phận và những điều kiện, phương tiện phục vụ dạy học và giáo dục trong nhà trường.

- Việc tự kiểm tra của các bộ phận, cá nhân trong trường và tự kiểm tra công tác quản lý của Hiệu trưởng.

Hoạt động KTCM trường học đã được quy định tại điều 22 Quyết định 478/QĐ của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT, ngày 11-3-1993 về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của hệ thống thanh tra GD&ĐT: “Hiệu trưởng các trường, Thủ trưởng các cơ sở giáo dục, đào tạo trong ngành có trách nhiệm sử dụng bộ máy quản lý và các cán bộ trong đơn vị để kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch của cá nhân và các bộ phận thuộc quyền xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo về các vấn đề thuộc trách nhiệm quản lý của mình.

Các hoạt động kiểm tra được thực hiện thường xuyên, công khai, dân chủ; Kết quả kiểm tra được ghi nhận bằng văn bản và được lưu trữ. Hiệu trưởng hay thủ trưởng phải chịu trách nhiệm về các kết luận kiểm tra này. Trường hợp cần thiết, Hiệu trưởng hay Thủ trưởng đơn vị lập tổ kiểm tra để tiến hành kiểm tra.

Ở các trường và các đơn vị có nhiều cán bộ GV, công nhân viên, Hiệu trưởng hay Thủ trưởng đơn vị cử một cán bộ chuyên trách hay kiêm nhiệm làm trợ lý giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Hiệu trưởng các trường phổ thông, các trường và các cơ sở giáo dục Mầm non tổ chức kiểm tra định kỳ các GV của trường” [5].

KTCM nhà trường (trường phổ thông) là một mặt hoạt động quản lý của HT, thực chất đó là tự KT toàn diện nhà trường. KTCM là hoạt động đo lường nội bộ nhằm giúp HT có được thông tin cần thiết làm cơ sở cho việc đánh giá kết quả các hoạt động giáo dục của nhà trường, các điều kiện giảng dạy, học tập; Xem xét việc tuân thủ, chấp hành quy chế, quy định của ngành; Tìm ra các nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế để có biện pháp thích hợp đôn đốc, giúp đỡ và điều chỉnh hoạt động của các cá nhân, bộ phận nhằm thực hiện kế hoạch, phù hợp với tiêu chuẩn, mục tiêu đã được định trước. KTCM góp phần củng cố, hoàn thiện và phát triển nhà trường, phát triển người GV và HS nói riêng.

KTCM là công cụ tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý trường học, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của nhà trường. Nếu nhà trường được xem là đối tượng KT của các cấp quản lý nhà nước về giáo dục, thì KTCM là KT từ bên trong

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 25/02/2023