Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với việc phát triển làng nghề tại tỉnh Quảng Nam - 10

khuyến khích mở và sử dụng tài khoản tiền gửi một cách linh hoạt, phát hành thẻ ATM, huy động tiết kiệm dự thưởng... nhằm tăng nhanh nguồn vốn nội và ngoại tệ đảm bảo đủ đáp ứng cho nhu cầu kinh doanh.

Đây là nguồn vốn giúp NH nâng cao tính chủ động trong kinh doanh cũng như vốn cho quá trình phát triển kinh tế, nên các tổ chức TD phải mở rộng và kết hợp hài hoà giữa hình thức huy động truyền thống như tiền gửi tiết kiệm thông thường, phát hành kỳ phiếu ngắn hạn, các chi nhánh NHNo&PTNT nên triển khai mạnh hơn nữa các hình thức huy động mới tạo ra những tiện ích đối với người gửi tiền, có sức hấp dẫn và lôi cuốn khách hàng như:

+ Hình thức tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm hưởng lãi suất bậc thang, tiết kiệm bảo đảm giá trị theo giá vàng, tiết kiệm gửi góp... Bởi các loại hình tiết kiệm này có sự tác động lớn đến tâm lý của người gửi tiền. Chẳng hạn như hình thức tiết kiệm dự thưởng, ngoài việc gửi tiền vào NH để được hưởng lợi từ phần chênh lệch lãi suất đem lại, đồng thời bảo đảm an toàn đối với tài sản thì người gửi tiền còn có cơ hội nhận được những giải thưởng có giá trị; hoặc hình thức tiết kiệm hưởng lãi suất bậc thang, với những kỳ hạn khác nhau sẽ có các mức lãi suất khác nhau, đo đó rất thuận tiện cho người gửi tiền trong những trường khách hàng cần rút nhưng chưa đến kỳ, không phải chịu thiệt thòi về lãi suất như hình thức tiết kiệm thông thường.

+ Phát hành các loại kỳ phiếu, hối phiếu dài hạn có thể dễ dàng chuyển đổi, mua bán, chuyển nhượng trên thị trường hoặc cầm cố để vay vốn tại các NH.

+ Khuyến khích khách hàng sử dụng thẻ và thực hiện việc trả lương qua tài khoản ATM đối với các tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp đóng trên địa bàn. Hiện tại, trên địa bàn tỉnh Quảng Nam mới chỉ có 11 máy ATM của tất cả các NH đang hoạt động, chủ yếu đặt tại hai trung tâm lớn là thị xã Tam Kỳ và phố cổ Hội An, các địa phương khác hầu như chưa có. Tổng số thẻ phát hành của tất cả các NH đến 30/6/2006 chỉ đạt 11.300 thẻ. Đây là một con số còn rất khiêm tốn so với tiềm năng. Trong khi đó, số lượng các tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp trên địa bàn là rất lớn, số tiền lương chi trả hàng tháng lên đến vài chục tỷ đồng.

Để có thể lôi kéo khách hàng sử dụng dịch vụ này, các NH cần phải có những chính sách tuyên truyền phù hợp nhằm tạo sự nhận thức sâu sắc trong mọi tầng lớp dân cư về những lợi ích mang lại từ việc sử dụng thẻ. Đồng thời, phổ biến rộng rãi dịch vụ

này bằng cách lắp đặt thêm nhiều máy rút tiền tự động tại một số địa điểm, nơi tập trung các đơn vị, tổ chức, các doanh nghiệp như khu công nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc, khu kinh tế mở Chu Lai, các trường học..., phát hành thẻ miễn phí và không thu phí sử dụng thường niên.

Ngoài ra, hình thức huy động vốn tiết kiệm, bán kỳ phiếu, trái phiếu khuyến mại cũng có sức hấp dẫn người gửi tiền. Thực hiện hình thức này, các tổ chức TD trên địa bàn phải trả cho người gửi tiền một khoản bằng tiền hoặc hiện vật ngay từ khi mới gửi tiền theo các mức quy định cụ thể, còn lãi suất được trả theo kỳ hạn quy định. Như vậy sẽ khích thích người gửi tiền huy động được nhiều tiền nhàn rỗi vào NH mà không ảnh hưởng đến kế hoạch chi tiêu trong tương lai.

- Mở rộng màng lưới huy động vốn. Trước tiên các tổ chức TD nên mở các điểm huy động vốn, bàn tiết kiệm ở những nơi dân cư đông đúc, khu công nghiệp tập trung, khu vực lân cận có thu nhập cao để tạo điều kiện thuận lợi cho người gửi tiền. Đồng thời, giảm bớt các điểm huy động vốn của tổ chức TD quá gần nhau. Thực hiện đại lý huy động vốn tại các công sở, cơ quan vừa tạo điều kiện cho người gửi tiền thuận lợi, vừa giảm bớt chi phí cho các chi nhánh NHTM qua đó tăng thêm nguồn vốn huy động.

Mở rộng mạng lưới đến sát dân hơn theo đúng nghĩa của nó, mạng lưới ở đây là những con người cụ thể làm việc theo kế hoạch, theo địa bàn từng thôn xóm, sâu sát với dân để nắm bắt được lý do vì sao họ chưa đến với NH. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến thói quen giữ tiền của người dân, vì thế việc giải thích và tư vấn cho khách hàng về lợi ích của việc gởi tiền vào ngân hàng và sử dụng các tiện ích khác của NH góp phần không nhỏ để dân cư tìm đến ngân hàng. Trong điều kiện thu nhập của đại bộ phận dân cư còn thấp, không thể có những món tiền lớn để đến với NH, đòi hỏi phải chuyển mạnh chiến lược khách hàng vào tầng lớp đại chúng để huy động được lượng vốn lớn nhờ khách hàng đông, tránh quan niệm nông dân nghèo làm sao có tiền gởi NH. Họ không có những khoản tiền lớn nhưng luôn có những khoản tiền nhỏ tạm thời nhàn rỗi sau mỗi vụ mùa thu hoạch, tiền dành dụm…Vì thế, việc mở rộng mạng lưới với đội ngũ cán bộ NH có chất lượng cao, không những chỉ giỏi về nghiệp vụ mà còn là một người bạn của dân là điều cần thiết phải làm.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

Nên đặt các điểm huy động vốn ở nhưng nơi đông dân cư, khu chế xuất, khu công nghiệp, khu kinh tế trọng điểm mới phát triển, thị trấn, thị tứ, thị xã, gần nơi kinh doanh

buôn bán lớn, các chợ, các xã, liên xã, vùng sâu, vùng xa...để huy động tối đa mọi nguồn vốn trong dân cư.

Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với việc phát triển làng nghề tại tỉnh Quảng Nam - 10

Cùng với việc mở rộng mạng lưới chi nhánh, phải củng cố nâng cao chất lượng hoạt động của các phòng giao dịch hiện có để thực hiện kinh doanh đa năng trong hoạt động NH nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng đến giao dịch với NH và do đó, NH sẽ thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn trong xã hội.

- áp dụng linh hoạt cơ chế lãi suất. Lãi suất huy động vốn là giá hàng hoá đặc biệt của các tổ chức TD. Mức lãi suất càng linh hoạt và gần với thị trường thì càng huy động được nhiều vốn. Vì vậy, các NH phải thực hiện nhiều mức lãi suất như trả trước, trả khi đến hạn, trả định kỳ tháng, quý, năm theo cố định từ đầu kỳ gửi hay thay đổi hàng năm. Đặc biệt, mạnh dạn áp dụng lãi suất luỹ tiến kiểu bậc thang, như: gửi món lớn hơn và thời gian dài hơn thì lãi suất cao hơn hay thời gian gửi không đủ kỳ hạn như ban đầu thì trả bằng lãi suất của các kỳ hạn nhỏ hơn nếu đủ kỳ hạn đó, phần thời gian còn lại mới trả theo lãi suất không kỳ hạn. Thực hiện lãi suất này sẽ khuyến khích người gửi tiền mạnh dạn gửi tiền thời gian dài mà không bị ảnh hưởng nhiều đến thu nhập khi có kế hoạch đột xuất sử dụng tiền vào chi tiêu, giúp các tổ chức TD tăng vốn huy động dài hạn để cho vay phục vụ nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH tỉnh Quảng Nam.

- Đổi mới phong cách giao dịch và nâng cao chất lượng dịch vụ trong huy động vốn. Phong cách giao dịch phải được coi là một loại nghiệp vụ đặc biệt. Văn minh lịch sự sẽ thu hút người gửi tiền. Nhất là trong điều kiện hội nhập, tính cạnh tranh càng gay gắt thì thái độ phục vụ càng phải mềm dẻo, tận tình, lịch sự, gây ấn tượng tốt đẹp với khách hàng mới thu hút được nhiều người gửi tiền. Để phong cách giao dịch thực sự văn minh lịch sự, tổ chức TD cần xây dựng quy chế giao dịch văn minh lịch sự, quỹ tiết kiệm kiểu mẫu... lấy đó làm khuôn mẫu thực hiện và thường xuyên kiểm tra việc thực hiện, kịp thời uốn nắn những sai lệch.

Mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ trong huy động vốn. Các tổ chức TD cần áp dụng công nghệ tin học nhiều hơn nữa vào các hoạt động NH để cung cấp nhiều cho thị trường những sản phẩm tiện ích, đáp ứng nhu cầu của khách hàng gửi tiền thuận tiện, nhanh chóng, phù hợp với từng hình thức huy động. Giúp các tổ chức TD trên địa bàn mở rộng hình thức huy động gửi một nơi, rút nhiều nơi. Thực hiện kéo dài thời gian giao dịch với khách hàng (có thể cả thứ bảy và chủ nhật hoặc ngày làm việc bình thường trong

tuần đến 10 giờ đêm,...) ở các điểm trung tâm có lượng khách giao dịch lớn. Mở thêm dịch vụ huy động tiền gửi và chi trả cho khách hàng tại nhà và tại công sở.

Mục tiêu đổi mới phong cách giao dịch và nâng cao chất lượng dịch vụ là nhằm mở rộng huy động, thu hút tối đa nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế. Mục tiêu này một mặt, để tăng cường nguồn vốn TD đầu tư sinh lợi, trực tiếp phục vụ cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng CNH, HĐH; mặt khác tạo điều kiện mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt. Hai mặt này có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau và tăng hiệu quả vận động vốn tiền tệ trên địa bàn.

3.2.2. Nhóm giải pháp cấp tín dụng

Thời gian qua, Đảng, Nhà nước và các cấp, ngành trung ương và địa phương đã ban hành một số cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển làng nghề. Về vốn, bên cạnh cân đối vốn đầu tư từ ngân sách, vốn của các tổ chức quốc tế, thì nguồn vốn TD đóng một vai trò quan trọng. Là NH chủ lực trong việc đầu tư vốn phát triển kinh tế ở khu vực nông nghiệp, nông thôn, một trong những nội dung hoạt động của NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam là đẩy mạnh việc tiếp cận các cơ sở làng nghề để mở rộng và tăng trưởng TD. Những giải pháp cụ thể cho vấn đề này là:

- Gắn TD với các dự án phát triển làng nghề theo nguyên tắc TD vững chắc, an toàn và hiệu quả

Trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế và cơ chế khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. NHNo&PTNT thường xuyên bám sát quá trình vận động của làng nghề, tăng cường biện pháp quản lý và đi sâu nghiên cứu hoạt động thực tế từng hộ, từng cơ sở, doanh nghiệp và từng làng nghề. Tạo điều kiện cho làng nghề có đủ vốn đổi mới kỹ thuật công nghệ, phát triển sản xuất và tăng năng suất lao động. Ngoài ra chú trọng đầu tư theo chiều sâu cho mỗi làng, mỗi nghề có một vài doanh nghiệp, cơ sở sản xuất có quy mô và tính chất hoạt động đa dạng, phong phú trên cơ sở đó mới tạo ra khả năng cho các doanh nghiệp các cơ sở này phát triển mạnh, có đủ điều kiện giúp đỡ nhiều những hộ sản xuất nhỏ về vật tư, tiền vốn và nhất là khâu tiêu thụ sản phẩm.

Hoạt động sản xuất tại các làng nghề hiện nay còn gặp không ít những hạn chế về tài chính, về quản lý và đặc biệt là việc lập xây dựng phương án sản xuất kinh doanh,

khả năng dự đoán về biến động của thị trường... Do vậy, NH cần phải thường xuyên đi sâu vào hoạt động của từng làng nghề, kết hợp với những thông tin kinh tế bên ngoài để sàng lọc, cân nhắc, trên cơ sở đó có thể tư vấn giúp người vay có quyết định đúng đắn trong lựa chọn sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

Yếu tố quyết định đầu tư TD chính là hiệu quả kinh tế của dự án vay chứ không phải là thủ tục pháp lý của hồ sơ TD hay tài sản thế chấp. Vì vậy, NH cần thẩm định xem xét kỹ hiệu quả kinh tế của dự án. Điều đó không chỉ có ý nghĩa quan trọng khi cho vay, mà còn là cơ sở vững chắc để thu hồi nợ đúng hạn. Bảo đảm việc tăng trưởng TD theo hướng vững chắc, an toàn và hiệu quả.

- Đẩy nhanh tốc độ xử lý nợ tồn đọng

Hiện nay, nợ tồn đọng của chi nhánh NHNo&PTNT Quảng Nam là 20.517 triệu đồng, chiếm 1,42 % trong tổng dư nợ, chủ yếu là nợ tồn đọng nhóm II và có tính chất như nợ nhóm II đã được NH cấp trên thông báo cho hạch toán theo dõi ở ngoại bảng để tiếp tục thu hồi. Việc xử lý thu hồi nợ tồn đọng có tác dụng làm lành mạnh hoá hoạt động TD của chi nhánh và tăng cường khả năng tài chính của ngành. Qua phân tích hồ sơ, nợ tồn đọng tại chi nhánh phổ biến là nợ không có bảo đảm, khách hàng không còn ở địa phương và một phần nhỏ người vay bị chết. Tổng hợp điều tra báo cáo của các chi nhánh NH cơ sở, phần lớn người vay nhưng vẫn còn tài sản như nhà ở nông thôn và đất sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, giải pháp thu hồi nợ tồn đọng là đề nghị chính quyền địa phương quản lý tài sản của người vay. Gửi đến Toà án dân sự đề nghị của NH và chính quyền địa phương về theo dõi và tuyên bố mất tích theo đúng quy định của pháp luật, đồng thời đăng thông báo địa phương yêu cầu khách hàng thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Khi hội đủ điều kiện xử lý, bán tài sản của người vay để thu nợ.

Để thực hiện có hiệu quả việc thu hồi nợ tồn đọng NHNo&PTNT Quảng Nam đã thành lập tổ thu hồi nợ do phó giám đốc phụ trách TD làm tổ trưởng. Tại các chi nhánh phụ thuộc do giám đốc chi nhánh làm tổ trưởng. Những khoản vay khó thu hồi được theo dõi riêng và từng trường hợp có biện pháp quản lý và xử lý cụ thể. Tổ thu hồi nợ có nhiệm vụ:

+ Đề ra các biện pháp, chủ trương thu hồi nợ.

+ Quan hệ với cấp uỷ, chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng để tạo điều kiện cho công tác thu hồi nợ và xử lý tài sản.

+ Trực tiếp xử lý những món vay lớn, phức tạp liên quan đến nhiều vấn đề hoặc các món vay có tranh chấp tài sản.

+ Kiểm tra, đôn đốc các phòng nghiệp vụ, các chi nhánh phụ thuộc báo cáo tình hình xử lý nợ khó đòi tại địa phương để có chỉ đạo.

Thực hiện việc giao kế hoạch thu nợ hàng tháng, hàng quý cho phòng TD gắn liền với công tác thi đua và xếp lương kinh doanh theo kết quả công việc được giao.

- Xây dựng cơ cấu TD gắn với cơ cấu phát triển của làng nghề

Hiện nay làng nghề ở Quảng Nam phát triển khá phong phú và theo các chiều hướng khác nhau. Chọn đúng hướng đầu tư là công việc quan trọng hàng đầu của các chi nhánh NH cơ sở. Để làm được điều này các chi nhánh cần nghiên cứu tìm hiểu thế mạnh của từng địa phương, từng làng nghề để việc cung cấp TD cũng như các dịch vụ khác đạt hiệu quả cao nhất.

Xây dựng một cơ cấu đầu tư hợp lý đối với khu vực làng nghề là hết sức cần thiết. Cơ cấu này phải bảo đảm phù hợp với quy hoạch phát triển làng nghề của tỉnh theo các nội dung sau:

+ Cân đối nguồn và cho vay trung dài hạn. Dư nợ TD làng nghề còn ít, chủ yếu là TD ngắn hạn. Tuy nhiên, theo xu hướng chung của nền kinh tế thì yêu cầu đổi mới thiết bị, công nghệ để nâng cao năng lực sản xuất đối với các doanh nghiệp đang gia tăng, đòi hỏi nguồn cấp vốn trung và dài hạn rất lớn.

Sự chuyển đổi một số khâu sản xuất từ lao động thủ công lên cơ khí hiện đại, tiến tới là sự thay thế cả một dây truyền máy móc kỹ thuật cho sản xuất tại các cơ sở làng nghề, đòi hỏi phải có nguồn vốn trung và dài hạn rất lớn, trong khi đó khả năng về vốn tự có của các cơ sở sản xuất lại có hạn.

+ Phân chia cụ thể các cơ sở làng nghề để cho vay đúng đối tượng, đảm bảo thuận lợi cho việc giải ngân và giám sát quy trình, mục đích sử dụng vốn. Xây dựng cơ cấu các loại cho vay: ngắn hạn, trung hạn hoặc cho vay giữa các ngành nghề khác nhau,...

+ Bên cạnh việc đảm bảo các mục tiêu kinh tế, cần mở rộng cho vay có trọng điểm, có địa chỉ, ưu tiên cho các làng nghề sản xuất hàng xuất khẩu, sử dụng nhiều lao động, tránh chủ nghĩa bình quân trong cho vay. Hạn chế tối đa các can thiệp hành chính trong quyết định cho vay, hiệu quả của dự án phải là tiêu chí hàng đầu.

- Phát triển đa dạng các sản phẩm TD của NHNo&PTNT

NH cần đa dạng hoá các hình thức TD cả về phương thức cho vay và thời hạn cho vay hợp lý, đáp ứng nhu cầu của khách hàng.

Mở rộng cho vay theo hạn mức TD. Hiện nay, NH chủ yếu áp dụng phương thức cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức chỉ áp dụng ở một số ít các doanh nghiệp; NH chưa cho vay theo hạn mức đối với hộ. Thực tế, nhiều hộ có quy mô sản xuất lớn, vòng quay của vốn nhanh nên xuất hiện nhu cầu vay khá thường xuyên, mỗi lần vay phải làm bộ hồ sơ rất vất vả. Điều này đã làm mất nhiều thời gian và công sức không cần thiết cho cả hai phía. Cho vay theo hạn mức làng nghề có ưu điểm là đảm bảo đủ vốn cho quá trình sản xuất, kinh doanh của hộ sản xuất, tránh tình trạng thiếu vốn đột xuất phải vay nóng, bán rẻ sản phẩm; đồng thời giúp doanh nghiệp, hộ sản xuất sử dụng vốn có hiệu quả cao nhất.

Thực hiện hình thức cho vay đồng tài trợ đối với các dự án lớn: đồng tài trợ là phương thức đầu tư an toàn phần lớn rủi ro, tổng hợp nguồn lực của nhiều NH thương mại vào một dự án lớn trên địa bàn khu vực có tầm cỡ quốc gia. Thông qua các dự án TD khả thi, các NH có thể liên kết với nhau để đầu tư vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn nhằm thực hiện dự án và phân tán rủi ro TD.

Nhìn chung, để có thể mở rộng đa dạng hoá TD đối với các làng nghề, thì bản thân NH nên đa dạng hoá các hình thức cho vay hơn nữa. Bên cạnh loại hình cho vay truyền thống, NH cần làm cho các hình thức TD khác phong phú hơn, hấp dẫn hơn. Đưa ra các hình thức TD phù hợp với các cơ sở làng nghề còn là một giải pháp để NH mở rộng thị trường kinh doanh.

Cần phải đa dạng hoá các loại hình cấp TD ngay cho một cơ sở làng nghề. Một cơ sở có thể cho vay ngắn hạn, cho vay dài hạn, cho thuê tài chính, hay bảo lãnh. Các thủ tục vay vốn phải đơn giản không rườm rà nhưng vẫn phải đầy đủ các yếu tố pháp lý.

Trong điều kiện các công ty cho thuê tài chính của NHNo&PTNT chưa đủ khả năng để vươn tới thị trường nông nghiệp, nông thôn ở các địa phương, NHNo&PTNT cần mở thêm nghiệp vụ TD thuê mua tại các chi nhánh của mình. Thuê tài chính đáp ứng nhu cầu rộng lớn của các đối tượng, nó không chỉ thỏa mãn cho các doanh nghiệp mà cả hộ sản xuất trong các làng nghề. Cho thuê tài chính xuất phát từ lợi ích của doanh nghiệp và của nền kinh tế, không đòi hỏi về tài sản thế chấp, điều này rất phù hợp để tạo cho các doanh nghiệp tại các làng nghề đầu tư máy móc, kỹ thuật phục vụ sản xuất.

Tạo điều kiện cho các làng nghề có thể tiếp cận với công nghệ sản xuất mới mà không cần lo tạo lập một nguồn vốn quá khả năng của họ. Hơn nữa, trong điều kiện TD trung, dài hạn đang gặp nhiều khó khăn về nguồn vốn, tài sản thế chấp, thủ tục…, thì thuê tài chính là giải pháp hữu hiệu giúp các làng nghề có điều kiện trang bị máy móc, thiết bị, đẩy mạnh cơ giới hoá, HĐH sản xuất. Đây là giải pháp nhằm góp phần thực hiện mục tiêu CNH, HĐH làng nghề ở nông thôn, hỗ trợ cho việc bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống.

Kết hợp hài hoà giữa các hình thức cho vay trực tiếp với hình thức cho vay gián tiếp. Hiện nay, trong điều kiện số lượng khách hàng của NH nông nghiệp rất lớn, trong khi đó lực lượng cán bộ TD không thể đáp ứng đầy đủ yêu cầu của các hộ sản xuất khi vay vốn. Để mở rộng đầu tư vốn kịp thời và đầy đủ cho làng nghề, NH cần phải kết hợp hài hoà giữa các hình thức cho vay trực tiếp với hình thức cho vay gián tiếp. Đối với các doanh nghiệp, hộ sản xuất có nhu cầu vay lớn thì NH có thể áp dụng hình thức cho vay trực tiếp đến tận các đơn vị. NH và các đơn vị vay vốn trực tiếp kết hợp đồng TD với nhau.

Đối với các hộ sản xuất, cần mở rộng việc cho vay qua tổ vay vốn của các tổ chức đoàn thể đối với các hộ sản xuất có thu nhập thấp theo tinh thần Nghị quyết liên tịch

2.308 giữa Trung ương Hội Nông dân Việt Nam với NHNo&PTNT Việt Nam. Mạnh dạn cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với các hộ vay vốn mang tính sản xuất hàng hoá, có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh khả thi, khả năng hoàn trả nợ NH đúng hạn. Qua đó tạo điều kiện cho các hộ có nhiều cơ hội tiếp cận hơn với vốn TDNH.

- Đổi mới xác định mức lãi suất cho vay

Cùng với nguồn vốn, lãi suất là vấn đề cốt lõi thể hiện trong kết quả hoạt động NH. Trong cơ chế thị trường, lãi suất phải thực sự là giá mua, giá bán của hàng hoá tiền tệ. Cái khó nhất hiện nay là làm thế nào vừa bảo đảm tuân thủ các quy luật kinh tế thị trường để NHNo&PTNT thực hiện kinh doanh, vừa phải đảm bảo sự ưu tiên nhất định đối với sản xuất nông nghiệp nói chung, làng nghề nói riêng. Nghĩa là, lãi suất huy động phải đảm bảo sát với chỉ số giá cả thị trường có thể cạnh tranh, còn lãi suất cho vay phải tương đối thấp mới có tác động đến sự phát triển sản xuất

Lãi suất cho vay phải vừa đảm bảo sự tồn tại và phát triển của NH, vừa tạo được động lực khuyến khích phát triển kinh tế. Để giải quyết tốt vấn đề này, NH cần thực hiện

.....

⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/05/2022