Vấn đề phân công, phân nhiệm quản lý trong BGĐ Trung tâm phải thật cụ thể, rõ ràng. GĐ chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động ở Trung tâm, nhưng có thể không trực tiếp phụ trách mà phân công cho PGĐ phụ trách quản lý hoạt động DHNPT. PGĐ làm việc dưới sự lãnh đạo GĐ, chịu trách nhiệm trước GĐ và cấp trên, cùng với GĐ vạch kế hoạch công tác, báo cáo với GĐ về phần công việc của mình. Vì thế, việc phân định chức trách là rất cần thiết. Tuy nhiên, điều quan trọng là sự phối hợp chặt chẽ, sự thống nhất giữa GĐ và PGĐ cùng các cộng sự của mình trong cùng một đường lối làm việc; Thể hiện ở chỗ: bàn bạc, thống nhất quan điểm lãnh đạo, cùng làm công tác bồi dưỡng GV; cùng lắng nghe ý kiến GV... Tránh tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” trong việc quản lý hoạt động ở Trung tâm- [25, tr. 183].
*Quản lý nhân viên: đội ngũ NV Trung tâm có vai trò quan trọng trong hoạt động DHNPT. Quản lý NV là một nhiệm vụ quan trọng của CBQL Trung tâm. Trong đội ngũ NV Trung tâm, chỉ có một số NV biên chế chính thức, còn lại là hợp đồng chỉ tiêu, hợp đồng thời vụ, do vậy hàng năm BGĐ Trung tâm phải ký hợp đồng với các NV hợp đồng. Công tác quản lý NV Trung tâm cũng có những đặc thù khác với quản lý GV, Lãnh đạo, quản lý Trung tâm GDKTTH cần có những chế độ, chính sách rõ ràng, công khai thể hiện trong quy chế TT, quy chế chi tiêu nội bộ Trung tâm, nhất là về nhiệm vụ được giao, tinh thần, thái độ, trách nhiệm với công việc, vấn đề tiền lương, tiền thưởng…Quản lý tốt đội ngũ NV góp phần tích cực thúc đẩy DHNPT Trung tâm GDKTTH đặt kết quả cao- [19, tr. 87- 92].
*Quản lý KTĐG CB, NV: quản lý hoạt động KTĐG cán bộ, giáo viên Trung tâm là một khâu quan trọng của quản lý DHNPT. Trước hết cán bộ quản lý trung tâm phải thấy rõ vai trò không thể thiếu, của đội ngũ CB, NV trong mọi hoạt động DHNPT. Có sự phân công, phân nhiệm cụ thể, rõ ràng đến từng CB, NV Trung tâm. Thường xuyên KTĐG để kịp thời động viên, uốn nắn, điều chỉnh hoạt động của đội ngũ CB, NV. Nhà quản lý Trung tâm phải đảm bảo hoạt động KTĐG đội ngũ CB, NV được công khai, minh bạch, đảm bảo tính công bằng, theo mục tiêu vì sự tiến bộ của người được đánh giá.
1.5.2.4.Quản lý hoạt động học NPT của Học sinh
Học sinh vừa là đối tượng vừa là chủ thể trong hoạt động dạy học, vì vậy, quản lý hoạt động học của HS là khâu quan trọng góp phần nâng cao chất lượng dạy học trong Trung tâm. Muốn thực hiện tốt chức năng quản lý HS, BGĐ Trung tâm phải bao quát được cả không gian và thời gian học tập để điều hòa cân đối chung. Điều khiển chúng
hoạt động phù hợp với tính chất và qui luật hoạt động dạy và học. Không gian hoạt động học tập của HS là từ trong lớp, ngoài lớp đến ở nhà. Thời gian hoạt động học của HS bao gồm giờ học trên lớp, giờ học ở nhà và thời gian thực hiện các hình thức học tập khác. Vấn đề quản lý hoạt động học tập của học sinh đặt ra với Lãnh đạo Trung tâm, không phải chỉ trên bình diện khoa học giáo dục, mà còn là một đòi hỏi có ý nghĩa về tinh thần trách nhiệm của nhà quản lý giáo dục đối với sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ.
Để làm tốt nhiệm vụ quản lý HS tới học NPT ở trung tâm GDKTTH, cán bộ quản lý phải thấy được những nét đặc thù của đối tượng mình sẽ quản lý, những thuận lợi, khó khăn trong công tác quản lý có như vậy mới có hiệu quả cao trong hoạt động quản lý HS. Học sinh đến học các môn NPT ở các Trung tâm GDKTTH, chủ yếu là HS đến từ các trường phổ thông (THCS, THPT) khác nhau, từ nhiều vùng địa phương (Thuần nông, nội thành, vùng giáp danh, thị trấn, miền núi,…) khác nhau. Tính đa dạng về vùng, miền, trình độ, sở trường của người học được tạo ra từ đây. Mỗi HS một thế mạnh, một ưu điểm và một sở thích khác nhau; dẫn đến phong cách học tập môn NPT của họ cũng hết sức đa dạng, phong phú. HS đến Trung tâm là để học NPT nên tâm tư, nguyện vọng, các yếu tố tâm lý trong việc học NPT có khác so với việc học văn hóa. Do vậy, cán bộ quản lý và GV của Trung tâm muốn làm tốt công tác quản lý của mình thì phải đi sâu tìm hiểu HS một cách đầy đủ, cặn kẽ về nguyện vọng, sở trường và các đặc điểm tâm sinh lý của các em.
Môn học NPT mặc dù theo các văn bản hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo là môn học chính khóa, nhưng nhìn nhận của xã hội, CMHS, HS và ở một số CBQL giáo dục, vẫn còn xem nhẹ như là môn học phụ, chỉ dùng kết quả điểm thi nghề để cộng điểm ưu tiên cho HS; Học sinh tới trung tâm GDKTTH học NPT chưa xác định đúng đắn động cơ, thái độ học tập, do đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập; Kết quả đánh giá, xếp loại quá trình học môn NPT, cũng như kết quả thi NPT ở trung tâm GDKTTH không ảnh hưởng nhiều tới xếp loại, đánh giá HSPT. Chính vì vậy, nhiều HS có nhận thức, thái độ không đúng về học NPT, như: không thực hiện nội quy học tập, học hành thiếu chăm chỉ, một số em còn tỏ ra coi thường GV dạy NPT. Hơn nữa, mỗi GV dạy NPT phải đảm nhận phụ trách dạy rất nhiều lớp nghề và mỗi lớp nghề chỉ dạy một buổi / tuần, tạo nên những khó khăn cho công tác quản lý HS.
Nhằm QL tốt HS tới học NPT ở trung tâm GDKTTH, trước hết lãnh đạo trung tâm gắn kết chặt chẽ, ký hợp đồng trách nhiệm, phối hợp với các nhà trường PT trong hoạt động quản lý, KTĐG học sinh tới trung tâm học NPT, đưa hoạt động học NPT vào nội dung đánh giá, xếp loại thi đua ở nhà trường PT. Các buổi HS tới trung
tâm học NPT, có sự kết hợp QL của GV chuyên trách trường PT, giữa trung tâm với các trường PT có thiết lập thông tin hai chiều để QL và sử lý kịp thời những vấn đề khi HS tới học NPT ở trung tâm GDKTTH.
Trung tâm GDKTTH kết hợp với nhà trường PT, tăng cường giáo dục động cơ học NPT, ý thức tự giác, thái độ tích cực cho HS trong hoạt động học NPT. Học sinh chưa có thái độ động cơ học tập rõ ràng nếu các em chưa trả lời được câu hỏi: Học môn NPT để làm gì? Nếu không có động cơ hoặc động cơ học tập sai thì học sinh không thích và chán học các môn NPT; Tăng cường sự phối hợp với các trường PT để giáo dục ý thức học tập cho HS thông qua các cuộc làm việc giữa Trung tâm, trường PT với CMHS. Do đặc thù của DHNPT ở Trung tâm, nên mối quan hệ giữa Trung tâm với các bậc CMHS có những hạn chế nhất định. Vì vậy, thông qua GV phụ trách lớp để thống nhất trong quản lý quá trình học tập của HS tại Trung tâm và gia đình.
Phải có sự phối hợp đồng bộ giữa trung tâm, nhà trường PT và gia đình trong việc tư vấn học NPT, định hướng cho HS tới học NPT, tránh tình trạng HS bỏ học, gây ra tình trạng lãng phí; thường xuyên đổi mới phương pháp đào tạo, dạy học NPT, đặc biệt về phương pháp giảng dạy tìm ra phương pháp đặc thù phù hợp với trình độ từng lớp, từng môn NPT, kích thích sự hưng phấn trong học NPTcho các em. Chương trình giảng dạy các môn NPT phải được thường xuyên cập nhật, đổi mới về nội dung, kiến thức phù hợp với tình hình hiện nay; Trung tâm cần có trang thiết bị về trắc nghiệm tâm lý sở thích để đo chỉ số tâm lý của HS qua số liệu thu được cán bộ sẽ tư vấn cho các em về các vấn đề và cho lời khuyên khi các em chọn nghề, ngành học khi tốt nghiệp PT. Đối với trường PT: Ban giám hiệu và GV phụ trách ở các trường PT cần tư vấn và hướng dẫn cho HS chọn học NPT phù hợp với năng khiếu và sở thích của từng em nhằm tránh tình trạng HS bỏ học, hoặc học ngành học không phù hợp với khả năng của các em; Khi làm hồ sơ đăng ký học NPT mỗi em phải làm bản cam kết, có ý kiến của CMHS, hình thức này góp phần thúc đẩy trách nhiệm quan tâm của gia đình đối với các em và nâng cao ý thức trong việc học NPT. nhà trường và gia đình nên dành thời gian trao đổi với HS về mục đích cũng như ý nghĩa của việc học NPT. Đối với gia đình: Thường xuyên quan tâm đến sở thích và năng khiếu của con em mình không nên ép các em học môn NPT mà em không thích, không phù hợp với tâm sinh lý của các em; Thường xuyên theo dõi, động viên và hướng cho các em học những NPT mà địa phương đang cần tạo điều kiện phát triển ngành nghề, kinh tế địa phương- [22, tr. 226- 227].
1.5.2.5. Quản lý môi trường DHNPT
(1).QL cơ sở vật chất, thiết bị dạy học: thực hiện công tác quản lý CSVC của Trung tâm có ảnh hưởng lớn đến quản lý DHNPT ở Trung tâm GDKTTH. BGĐ phải chỉ đạo cán bộ được phân công phụ trách CSVC thường xuyên nắm tình hình số lượng, tình hình CSVC, thiết bị Trung tâm hiện có, phân bổ sử dụng hợp lý, thường xuyên chăm lo tu sửa, tu bổ và xây dựng mới phục vụ cho công tác giáo dục của Trung tâm, hàng năm chỉ đạo tiến hành kiểm kê CSVC, tài sản trung tâm, xây dựng nội quy bảo quản, phân công trách nhiệm bảo quản và sử dụng cho từng đối trượng, khi mất mát hay làm hư hỏng phải quy định rõ trách nhiệm và xử lý đúng mức.
Cán bộ quản lý Trung tâm thường xuyên tổ chức kiểm tra, đánh giá thực trạng và thực hiện điều chỉnh, bổ xung kịp thời các điều kiện vật chất, kỹ thuật của Trung tâm, bao gồm từ đất đai, nhà, xưởng, máy móc, dụng cụ, nguyên vật liệu, các thiết bị dạy-học cần thiết cho giảng dạy, học tập, thực tập, cho đến phương tiện bảo hiểm lao động, các phương tiện phòng cháy chữa cháy, các dụng cụ thuốc men, y tế cho việc cấp cứu, xử lý những tai nạn không may xảy ra trong quá trình thực hành, lao động sản xuất...Cuối mỗi năm học, BGĐ thực hiện kiểm kê tài sản, nhằm kịp thời nắm bắt, báo cáo, uốn nắn, bổ xung CSVC, trang thiết bị kỹ thuật chuẩn bị cho năm học mới.
(2).Quản lý Tài chính: hỗ trợ cho hoạt động DHNPT ở Trung tâm có được kết quả cao. Giám đốc phải chỉ đạo và thực hiện chi tiêu ngân sách của Trung tâm đúng định mức, đúng luật ngân sách, có hồ sơ sổ sách đầy đủ theo quy định của ngành Tài chính và thường xuyên kiểm tra Tài chính của Trung tâm. GĐ Trung tâm thực hiện tốt chức năng quản lý Tài chính, quản lý hiệu quả các nguồn Tài chính bao gồm: Nguồn ngân sách nhà nước cấp; Học phí, các khoản thu từ các hợp đồng đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, lao động sản xuất và các hoạt động khác; Các nguồn thu Tài chính hợp pháp khác.
(3).Quản lý phối hợp với các nhà trường PT: do đặc thù của hoạt động giáo dục ở Trung tâm GDKTTH, học sinh học NPT ở Tung tâm là học sinh PT từ các trường THCS, THPT tới học, do vậy vấn đề phối kết hợp trong hoạt động quản lý DHNPT, giữa Trung tâm với các nhà trường PT có học sinh tới học NPT. Nó có vai trò hết sức quan trọng, quyết định tới chất lượng QLHS học NPT, chất lượng học môn NPT của học sinh.
Để thực hiện tốt chức năng quản lý phối hợp giữa Trung tâm với các nhà trường PT có học sinh tới Trung tâm học NPT, đầu các năm học mới BGĐ Trung tâm có tổ chức hội nghị tuyển sinh, với thành phần chủ yếu là BGH các trường PT có học sinh tới học NPT, hai bên trao bàn bạc, trao đổi, thống nhất và đi đến ký hợp đồng cam kết trách
nhiệm về: Tuyển sinh học NPT; Chất lượng DHNPT; Quản lý học sinh HNPT; Kinh phí đào tạo… Trong chức năng quản lý phối hợp, đặc biệt hai bên chú trọng phối hợp quản lý HS trong các buổi tới Trung tâm GDKTTH học NPT. Cụ thể, Trường PT có cử một thày, cô chuyên trách quản lý HS tới Trung tâm HNPT; Trung tâm giao trách nhiệm quản lý học sinh trong các buổi học, cho các giáo viên dạy các môn NPT, trong mỗi buổi học GV bộ môn NPT có “Phiếu báo cáo nhanh” về tình hình lớp học, chuyển cho Giáo vụ Trung tâm để sử lý và kịp thời thông báo về trường PT; Các trường PT đưa học NPT vào nội dung thi đua của nhà trường, thường xuyên KTĐG, kịp thời chấn chỉnh, xử lý các vấn đề nảy sinh trong quản lý học sinh học NPT. Kết thúc năm học, Trung tâm GDKTTH tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động DHNPT (tháng 7 hàng năm), với thành phần là cán bộ QL Trung tâm, cán bộ QL các trường PT có học sinh tới Trung tâm học, đánh giá hoạt động DHNPT, công tác phối hợp quản lý DHNPT, vấn đề khen thưởng, kỷ luật học sinh, tập thể HS trong năm học và công tác chuẩn bị cho thi nghề THPT. Thực hiện tốt chức năng quản lý phối hợp giữa Trung tâm GDKTTH với các nhà trường PT có HS tới Trung tâm học, là trách nhiệm của các nhà QL Trung tâm GDKTTH [17, tr.50- 58].
1.6. Các yếu tố tác động tới quản lý hoạt động DHNPT, ở Trung tâm GDKTTH
Quản lý hoạt động DHNPT ở Trung tâm GDKTTH chịu tác động của nhiều yếu tố, có thể chia làm 2 loại yếu tố tác động cơ bản: Các yếu tố tác động từ bên ngoài Trung tâm và các yếu tố tác động từ bên trong Trung tâm.
1.6.1. Các yếu tố tác động từ bên ngoài Trung tâm
Có nhiều yếu tố bên ngoài tác động tới quản lý hoạt động DHNPT ở Trung tâm GDKTTH, trong đó phải kể đến các yếu tố:
- Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước ta đối với hoạt động của Trung tâm GDKTTH, trong đó việc xác định mục tiêu, định hướng phát triển Trung tâm GDKTTH của Ngành Giáo dục, sẽ trực tiếp tác động tới quản lý hoạt động DHNPT ở Trung tâm GDKTTH.
- Sự tác động của Môi trường, của nền Kinh tế- Xã hội ảnh hưởng tới hoạt động và quản lý hoạt động DHNPT ở Trung tâm GDKTTH. Đặc biệt là sự nhìn nhận, đánh giá của xã hội đối với vai trò của Trung tâm GDKTTH. Nó có tác động lớn tới hoạt động và quản lý hoạt động DHNPT ở Trung tâm GDKTTH.
1.6.2. Các yếu tố tác động từ bên trong Trung tâm
Có nhiều yếu tố bên trong Trung tâm tác động tới công tác quản lý hoạt động DHNPT, ở Trung tâm GDKTTH như các yếu tố: Nhận thức và năng lực của đội ngũ cán bộ Quản lý Trung tâm; Nhận thức và năng lực của đội ngũ GV, NV trong Trung tâm;
Nhận thức và năng lực của học sinh học NPT ở Trung tâm; CSVC kỹ thuật của Trung tâm. Trong đó nhận thức, năng lực và uy tín của GĐ Trung tâm có vai trò quyết định tới hiệu quả của công tác quản lý hoạt động DHNPT ở Trung tâm GDKTTH.
Kết luận chương 1
Chương 1 đã trình bày kết quả nghiên cứu một cách có hệ thống, cơ sở lý luận về quản lý hoạt động DHNPT ở Trung tâm GDKTTH. Trên cơ sở xem xét lịch sử các vấn đề nghiên cứu, tìm hiểu các cơ sở pháp lý chỉ đạo quản lý hoạt động DHNPT ở Trung tâm GDKTTH, xây dựng một số các khái niệm công cụ cơ bản liên quan tới các vấn đề nghiên cứu. Xuất phát từ cơ sở pháp lý, Luật Giáo dục 2005 và Quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm GDKTTH (ban hành theo quyết định số 44/2008/BGD& ĐT ngày 30/7/2008), nội dung chương 1 cũng tập chung làm rõ cơ sở, nền tảng xây dựng tổ chức và hoạt động của Trung tâm GDKTTH, qua đó xác định được vị trí, chức năng, nhiệm vụ, cấp quản lý, chương trình thực hiện, cơ sở vật chất, đội ngũ cũng như nguồn tài chính... để Trung tâm GDKTTH có thể tồn tại, hoạt động và phát triển phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội đât nước. Trọng tâm của chương 1 là, đi sâu xây dựng cơ sở lý luận về công tác quản lý hoạt động DHNPT ở Trung tâm GDKTTH, tác giả làm rõ chức năng và những nội dung cơ bản về quản lý hoạt động DHNPT ở Trung tâm GDKTTH.
Việc nghiên cứu đầy đủ và có tính hệ thống, cơ sở lý luận về quản lý hoạt động DHNPT ở Trung tâm GDKTTH trong chương 1, sẽ là tiền đề khoa học để tác giả thực hiện nội dung chương 2, nghiên cứu về: Thực trạng quản lí hoạt động dạy học nghề phổ thông, ở Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC NGHỀ PHỔ THÔNG Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC KỸ THUẬT TỔNG HỢP SỐ 5 HÀ NỘI
2.1. Vài nét về đặc điểm kinh tế- xã hội và hoạt động GDKTTH ở Hà Nội
2.1.1. Tình hình phát triển KT-XH Hà Nội
Hà Nội là một trong năm thành phố trực thuộc Trung ương của Việt Nam, được xếp vào đô thị loại đặc biệt. Sau những thay đổi về địa giới và hành chính năm 2008, Hà Nội hiện có 30 đơn vị hành chính cấp huyện – gồm 12 quận, 17 huyện, 1 thị xã – và 584 đơn vị hành chính cấp xã – gồm 386 xã, 177 phường và 21 thị trấn. Ngày 27/12/2013, Chính phủ ban hành nghị quyết 132/NQ-CP điều chỉnh địa giới hành chính huyện Từ Liêm để thành lập 2 quận và 23 phường.
Hà Nội ngày nay, là trung tâm giáo dục lớn nhất Việt Nam. Năm 2009, Hà Nội có 677 trường tiểu học, 581 trường trung học cơ sở và 186 trường trung học phổ thông với 27.552 lớp học, 982.579 học sinh. Có 40 trường THPT hệ công lập, trên 50 trường đại học cùng nhiều cao đẳng, đào tạo hầu hết các ngành nghề quan trọng.. Hà Nội được xem như nơi tập trung, nơi quy tụ của những nhân vật ưu tú, những thương nhân, những nghệ nhân, những thợ thủ công lành nghề. Hà Nội trở thành mảnh đất tiêu biểu cho nền văn hóa của cả Việt Nam. Trong những năm gần đây, kinh tế Thủ đô tiếp tục duy trì mức tăng trưởng khá.
Vài nét về tình hình kinh tế- xã hội các quận Cầu giấy, Bắc từ liêm và nam Từ liêm (Địa bàn tuyển sinh HS học NPT ở trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội): Cầu Giấy là quận được thành lập theo Nghị Quyết 74 CP ngày 21/11/1996 của Chính Phủ. Từ Liêm nằm ở phía Tây của Thủ đô Hà Nội, Huyện Từ Liêm được thành lập vào ngày 31/5/1961 theo Quyết định của Thủ tướng chính phủ. Ngày 27/12/2013, Chính phủ ban hành nghị quyết 132/NQ-CP điều chỉnh địa giới hành chính huyện Từ Liêm để thành lập nên 2 quận Bắc Từ liêm và Nam Từ liêm, bao gồm 23 phường. Cơ cấu kinh tế quận Cầu Giấy, huyện Từ Liêm đều chuyển dịch sang cơ cấu kinh tế của đô thị: Dịch vụ, thương mại - công nghiệp - nông nghiệp.
Tình hình GD&ĐT nghề của địa phương: hệ thống cơ sở ĐT nghề vùng Cầu Giấy, Từ Liêm tăng cả về số lượng lẫn quy mô ĐT, nhất là lĩnh vực ĐT nghề. Nền kinh tế vùng Cầu Giấy, Từ Liêm đang mở ra cơ hội về việc làm của thanh niên. Điều này tác động tốt đến ý thức xã hội nói chung và của HS nói riêng về định hướng nghề nghiệp ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông. Tuy vậy trong thời gian qua việc định hướng nghề nghiệp cho HS còn một số hạn chế:
Một là, CSVC, đội ngũ GV, nội dung DHNPT chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới.
Hai là, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề còn ở mức thấp; hoạt động tư vấn, định hướng nghề nghiệp, phân luồng HS sau THCS và THPT chưa được quan tâm và triển khai một cách hiệu quả.
Ba là, chưa chú trọng GD ý thức công dân một cách đúng mức; hơn nữa GD chưa gắn với KT-XH địa phương nên chưa hun đúc được tình yêu để dốc sức học tập và gắn kết với lao động xây dựng quê hương trong HS.
Bốn là, vệc huy động các doanh nghiệp, các nhà hảo tâm, PHHS tham gia công tác hướng nghiệp, DHNPT chưa được chú trọng đúng mức.
2.1.2. GDKTTH trên địa bàn cả nước và trên địa bàn thành phố Hà Nội
Xuất phát từ nhu cầu tổ chức thực hiện GDKTTH nhằm trang bị kiến thức, hình thành kỹ năng lao động nghề nghiệp cho học sinh phổ thông, tạo điều kiện cho một bộ phận không nhỏ học sinh tốt nghiệp ra trường tham gia vào cuộc sống lao động những năm 80 của thế kỷ trước; trong điều kiện kinh tế xã hội nước ta lúc bấy giờ chưa thể đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động lao động - hướng nghiệp đến từng trường phổ thông, theo kế hoạch của Bộ Giáo dục và Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) tại Hà Nội, Trung tâm GDKTTH ra đời. Năm học 1980 – 1981, UNICEF giúp ta trang bị cho 20 Trung tâm GDKTTH. Từ đó đến nay, mô hình Trung tâm GDKTTH đã phát triển không ngừng về số lượng cũng như nội dung hết sức đa dạng. Qua bảng thống kê dưới đây, chúng ta sẽ thấy rõ sự phát triển đó.
Bảng 2.1: Sự phát triển của hệ thống Trung tâm GDKTTH (1981-2015)
1981 | 1986 | 1990 | 1993 | 1994 | 1995-2012 | 2013 | 2014 | 2015 | |
S.lượng TT | 20 | 57 | 103 | 184 | 285 | 320 | 349 | 357 | 383 |
Có thể bạn quan tâm!
- Vị Trí Của Trung Tâm Gdktth Trong Hệ Thống Gdqd - [7, Tr. 1- 5]
- Kiểm Tra, Đánh Giá Kết Quả Dhnpt Ở Trung Tâm Gdktth
- Quản lý hoạt động dạy học nghề phổ thông ở Trung tâm Giáo dục kỹ thuật tổng hợp số 5 Hà Nội trong giai đoạn hiện nay - 5
- Cơ Cấu Tổ Chức Của Trung Tâm Gdkttk Số 5 Hà Nội Cụ Thể Về Cơ Cấu Tổ Chức Của Trung Tâm:
- Kết Quả Khảo Sát Ý Kiến Cbql, Gv, Hs, Cmhs Nhận Thức Về Mục Đích Học Sinh Học Npt Ở Trung Tâm Gdktth Số 5 Hà Nội
- Chất Lượng Giáo Dục Hs Học Npt Giai Đoạn 2011 – 2016.
Xem toàn bộ 133 trang tài liệu này.
(Nguồn: Trung tâm Lao động-Hướng nghiệp, Bộ GD&ĐT- 2015)
Năm 1981 có 20 Trung tâm GDKTTH đầu tiên được thành lập, những năm tiết theo số lượng Trung tâm GDKTTH không ngừng tăng lên. Giai đoạn từ năm 1995-2012, số lượng Trung tâm GDKTTH giữ ở con số 320 trung tâm, vì giai đoạn sau năm 1996, có một số trung tâm GDKTTH mới ra đời, nhưng lại có sự chuyển giao một số trung tâm GDKTTH, thành Trung tâm dạy nghề do bộ Lao động và Thương binh- Xã hội quản lý. Từ năm 2013 đến năm 2015 số lượng Trung tâm GDKTTH lại không ngừng tăng lên. Lý do là, từ năm 2013 nghành Giáo dục có chủ trương mỗi quận, huyện trên cả nước sẽ thành lập một Trung tâm duy nhất có tên gọi: Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp- Giáo dục thường xuyên. Nếu trên địa bàn quận,