Một Số Khái Niệm Cơ Bản Của Đề Tài 91527

Chương 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC

MÔN TOÁN Ở TRƯỜNG THCS ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐỔI MỚI CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG

1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Ở nước ngoài

Vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và nâng cao chất lượng dạy học nói riêng trong các nhà trường từ lâu đã trở thành vấn đề quan tâm của các nước trên thế giới. Trong lịch sử giáo dục thế giới việc nghiên cứu, tìm tòi các phương pháp dạy học hiệu quả đã được rất nhiều nhà sư phạm, nhà giáo dục quan tâm.

Các nhà nghiên cứu giáo dục Nga khẳng định rằng: Kết quả của toàn bộ hoạt động quản lý của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức đúng đắn và hợp lý hoạt động giảng dạy của đội ngũ GV [30, tr.8].

P.V.Zimin, M.I.Konđakôp “đi sâu nghiên cứu lãnh đạo công tác giảng dạy, giáo dục trong nhà trường và xem đây như khâu then chốt trong hoạt động quản lý của hiệu trưởng, các tác giả thống nhất và khẳng định người hiệu trưởng phải là người lãnh đạo toàn diện và chịu trách nhiệm chính trong công tác quản lý nhà trường” [30, tr.8].

J.A.Cômenxki - một nhà giáo dục vĩ đại người Séc (Tiệp Khắc) đã đưa ra quan điểm giáo dục phải thích ứng với tự nhiên, quá trình dạy học để truyền thụ và tiếp nhận tri thức là phải dựa vào sự vật, hiện tượng do học sinh tự quan sát, tự suy nghĩ mà hiểu biết, không nên dùng uy quyền bắt buộc, gò ép người ta chấp nhận bất cứ một điều gì. Ông đưa ra một hệ thống các nguyên tắc dạy học trong đó nguyên tắc trực quan được coi là nguyên tắc quan trọng nhất [31, tr.39].

Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ II đã tái thiết đất nước bằng tinh thần phát huy cao độ nội lực của toàn dân tộc thông qua chính sách phát triển giáo dục rất sớm và phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước. Nhờ vậy mà đã

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 141 trang tài liệu này.

trở thành một cường quốc về kinh tế trên thế giới. Trong tác phẩm: “Giáo dục vì cuộc sống sáng tạo” [29, tr.5] của nhà giáo Nhật lỗi lạc Tsunesaburo Makiguchi đã nói về những tư tưởng và đề nghị nâng chất lượng giáo dục đào tạo học sinh và sinh viên.

Nước Mỹ với nền giáo dục hiện đại đã góp phần đáng kể cung cấp cho xã hội Mỹ một đội ngũ đông đảo những trí thức, những nhà khoa học cũng như hàng triệu công nhân kỹ thuật lành nghề, góp phần phát triển kinh tế Mỹ. Nhờ đó Mỹ trở thành một cường quốc về kinh tế quân sự trên thế giới. Trong thông điệp gửi quốc dân ngày 04/02/1997, tổng thống Mỹ Bill Clinton kêu gọi hành động để cho nước Mỹ bước vào thế kỷ XXI, hành động để duy trì nền kinh tế, hành động để tăng cường nền giáo dục, công nghệ khoa học.

Quản lý hoạt động dạy học môn toán ở các trường THCS huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông - 3

Từ những công trình nghiên cứu của nhà khoa học giáo dục trên thế giới, chúng ta nhận thấy các tác giả đi vào nghiên cứu nhiều chuyên đề, nhiều lĩnh vực, nhiều phương pháp, nhiều chương trình… nhưng tất cả đều nhằm mục đích nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục nói chung, GD phổ thông nói riêng.

1.1.2. Ở Việt Nam

Trong các thời kỳ xây dựng đất nước, Đảng và nhà nước ta rất quan tâm về giáo dục. Trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Giáo dục, báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 đã nêu rõ những quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục là nền tảng, nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, theo định hướng XHCN, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo cơ hội bình đẳng để ai cũng được học hành. Nhà nước và xã hội có cơ chế, chính sách giúp đỡ người nghèo học tập, khuyến khích những người học giỏi phát triển tài năng.

Nhiều năm qua, ngành giáo dục Việt Nam cùng với sự đổi mới kinh tế - xã hội, đã tiếp cận và có những biến đổi sâu sắc, đã có nhiều công trình nghiên cứu và các cuộc hội thảo khoa học của các đơn vị địa phương đến hội thảo khu vực quốc gia bàn về vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở các cấp về nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động dạy học đã được triển khai, nhiều tác giả đã viết sách, báo, tài liệu tham khảo để bàn luận trao đổi về vấn đề này như:

“Một số vấn đề lý luận về quản lý giáo dục” của Nguyễn Gia Quý; “Tổ chức quản lý quá trình GD&ĐT” của Nguyễn Minh Hiển; “Đại cương về quản lý” của Nguyễn Hữu Lộc và Nguyễn Hữu Chí; “Quá trình quản lý GD&ĐT” của Nguyễn Đức Trí… Đây là những công trình về quản lý giáo dục mang lại hiệu quả nhất định cho công tác quản lý giáo dục nói chung, quản lý nhà trường nói riêng.

Ngoài ra các tác giả, các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý như Phạm Minh Hạc, Nguyễn Hữu Châu, Nguyễn Cảnh Toàn, Đặng Quốc Bảo, Đặng Bá Lãm, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Trần Quốc Thành, Trần Kiểm, Phạm Viết Vượng,… cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về QLGD, quản lý nhà trường. Những công trình nghiên cứu trên đã đi sâu vào lý luận QLGD nói chung, nhưng xét trên phương diện quản lý cụ thể một môn học ở trường phổ thông trong đó có môn toán ở cấp THCS thì chưa được đề cập nhiều. Vấn đề quản lý các môn học trong nhà trường phổ thông đã được quan tâm trong nhiều năm gần đây, nhất là trong các luận văn về QLGD.

Những đề tài nghiên cứu đối với bộ môn toán ở trường phổ thông của nhiều chuyên gia cũng đã đề cập ít nhiều về phương diện quản lý trong quá trình dạy học môn toán sao cho có hiệu quả nhất. Tiêu biểu có thể kể đến một số công trình nghiên cứu có giá trị như: PPDH đại cương môn toán của tác giả Nguyễn Bá Kim (2010); Vận dụng lý luận vào thực tiễn dạy học môn toán ở trường phổ thông của tác giả Bùi Văn Nghị (2009); Cẩm nang dạy và học môn toán THCS của tác giả Vũ Hữu Bình (2007)…

Nói chung những công trình trên đều đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận về QLGD, quản lý nhà trường hay quản lý quá trình dạy học nói chung mà ít đề cập đến các giải pháp cụ thể để quản lý hoạt động dạy học từng bộ môn đặc biệt chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về quản lý hoạt động dạy học môn toán ở các trường THCS đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông.

Những đề tài nghiên cứu về QL HĐDH ở trong nước đã có những đóng góp cả về lý luận và thực tiễn. Những kết quả nghiên cứu đã giúp cho các nhà QL nói chung và đặc biệt là CBQL ở các trường THCS nói riêng có thể tham khảo và vận dụng một cách linh hoạt trong việc QL HĐDH tại đơn vị mình một cách có hiệu quả.

Tuy nhiên trong thực tiễn QL cho thấy ở từng bậc học, ở từng địa phương luôn nảy sinh những vấn đề riêng và mới. Hơn thế nữa, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện GD và đào tạo sau khi được ban hành. Các đề tài chưa nghiên cứu sâu đến QL HĐDH ở trường THCS trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục hiện nay. Vì vậy, vấn đề tác giả đặt ra ở luận văn này là tìm hiểu thực trạng QL HĐDH ở các trường THCS huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, từ đó đề xuất các biện pháp QL HĐDH ở các trường THCS huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông.

1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài

1.2.1. Quản lý

Theo tác giả Trần Quốc Thành "Quản lý là một hoạt động có chủ đích, là sự tác động liên tục của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý về nhiều mặt bằng một hệ thống các luật lệ, chính sách, nguyên tắc và các phương pháp cụ thể nhằm thực hiện các mục tiêu xác định" [25, tr.1].

Sự xuất hiện của hoạt động quản lý trong xã hội dẫn đến mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể quản lý và những mối quan hệ qua lại giữa các nhân tố trong

hệ thống quản lý. Những mối quan hệ phức tạp gọi là quan hệ quản lý - một kiểu của quan hệ xã hội cũng là đối tượng nghiên cứu của khoa học quản lý. Khoa học quản lý đi sâu vào nghiên cứu bản chất của các mối quan hệ quản lý, các quy luật vận động và phát triển của chúng, trên cơ sở đó đề xuất những con đường, phương pháp tối ưu cho sự quản lý hệ thống xã hội nhằm tạo điều kiện cho nó vận hành thuận lợi đạt tới mục tiêu xác định

Tác giả Nguyễn Thị Tính đã khái quát: “Quản lý là quá trình tác động có tính định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý trong tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt được mục tiêu đề ra”. Hay nói cách khác: “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng việc thực hiện các chức năng quản lý, lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra” [26, tr.3, 4].

Theo tác giả Đặng Thành Hưng, “Quản lý là một dạng lao động đặc biệt nhằm gây ảnh hưởng, điều khiển, phối hợp lao động của người khác hoặc của nhiều người khác trong cùng tổ chức hoặc cùng công việc nhằm thay đổi hành vi và ý thức của họ, định hướng và tăng hiệu quả lao động của họ, để đạt mục tiêu của tổ chức hoặc lợi ích của công việc cùng sự thỏa mãn của những người tham gia”. Theo cách hiểu này, bản chất của quản lý chỉ là gây ảnh hưởng chứ không trực tiếp sản xuất hay tạo ra sản phẩm, có mục tiêu và lợi ích là cái chung chứ không nhằm mục tiêu và lợi ích của riêng cá nhân nào, có tính hệ thống chứ không phải quá trình hay hành động đơn lẻ [17, tr.11,12].

Quản lý là một quá trình lựa chọn các tác động nên nhà quản lý phải biết sắp xếp và thể hiện hợp lý các tác động lên đối tượng bị quản lý sao cho đảm bảo sự cân đối cả hai mặt ổn định và phát triển của bộ máy. Nếu chỉ có ổn định mà không phát triển thì sẽ dễ suy thoái, ngược lại nếu phát triển mà không ổn định thì tất yếu dẫn đến nguy cơ rối ren. Quản lý còn là việc đặt ra mục tiêu, lựa chọn các phương tiện, điều kiện và tác động vào từng thành tố của hệ thống bằng các phương pháp thích hợp nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Về phương diện nhà quản lý thì quản lý là sự tác động của nhà quản lý trong việc chỉ huy,

điều khiển, tổ chức quản lý hướng vào các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của từng con người trong quá trình quản lý nhằm đưa đến sự phát triển, biến đổi phù hợp với quy luật khách quan, đạt mục tiêu quản lý. Để quản lý, người quản lý phải lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, chỉ đạo và kiểm tra công việc.

Như vậy, quản lý là một quá trình tác động có định hướng, có tính chất lựa chọn các tác động phù hợp dựa trên các thông tin về tình trạng của đối tượng quản lý và môi trường nhằm tạo cho đối tượng vừa vận hành trong thế ổn định, vừa tạo sự phát triển theo mục đích đề ra được thực hiện thông qua các hoạt động lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra đánh giá.

1.2.2. Hoạt động dạy học

Hoạt động dạy học là hoạt động chuyên biệt do thầy giáo thực hiện theo phương thức nhà trường, nhằm giúp người học lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm của xã hội loài người, tạo ra sự phát triển tâm lý và hình thành nhân cách. Cần phân biệt dạy trong đời sống hàng ngày và hoạt động giảng dạy do thầy giáo thực hiện theo phương thức nhà trường. Trong cuộc sống đời thường, chúng ta hay nói, “Dạy ăn, dạy nói, dạy gói, dạy mở” đây là cách truyền đạt những kinh nghiệm cuộc sống của thế hệ trước cho thế hệ sau. Điều này tất nhiên cũng đem lại những hiểu biết nhất định, song nó không thể giúp cho thế hệ trẻ lĩnh hội được hệ thống tri thức của nhân loại và giúp cho sự phát triển toàn diện.

Hoạt động dạy học được thực hiện trong một thiết chế chuyên biệt, đó là nhà trường. Ở đó có tổ chức bộ máy, có mục tiêu, có nội dung, chương trình đã được chọn lọc tối ưu phù hợp với từng lứa tuổi, có cơ sở vật chất, tài chính riêng phù hợp với điều kiện địa phương, có đội ngũ GV, cán bộ quản lý được đào tạo bài bản và có kinh nghiệm trong quản lý, điều hành nhà trường.

Tóm lại, HĐDH là hoạt động truyền thụ tri thức, giúp cho người học phát triển nhân cách. Hoạt động này được tiến hành chủ yếu trong nhà trường, GV giữ vai trò tổ chức, điều khiển, hướng dẫn người học cách chiếm lĩnh tri thức và phát triển tâm lý.

1.2.3. Quản lí hoạt động dạy học

Quản lý hoạt động dạy học là quản lý một quá trình với tư cách là một hệ thống toàn vẹn, thống nhất, biện chứng, bao gồm nhiều tầng bậc với các mối liên hệ đan xen, với các thành tố cơ bản: Mục tiêu, nội dung dạy học, thầy với hoạt động dạy, trò với hoạt động học, các phương pháp và phương tiện dạy học, các hình thức tổ chức dạy học, kiểm tra - đánh giá kết quả dạy và học. Tất cả các yếu tố này tồn tại trong mối liên hệ qua lại và thống nhất với môi trường (môi trường thực hiện hoạt động dạy - học, môi trường văn hóa - giáo dục - khoa học công nghệ, môi trường chính trị - kinh tế - xã hội). Điều này có nghĩa là chủ thể quản lý phải tác động vào toàn bộ các thành tố hoạt động dạy học theo đúng các quy luật, lý luận về dạy học hiện đại, lý luận về quản lý để đưa hoạt động dạy học từ trạng thái hiện có sang trạng thái phát triển cao hơn nhằm tiến tới mục tiêu dạy học, mục tiêu giáo dục.

Ngoài ra, trong quản lý hoạt động dạy học, người quản lý cũng cần phải nắm vững và áp dụng linh hoạt, sáng tạo các chức năng của quản lý, đó là: Chức năng kế hoạch hóa, chức năng tổ chức, chức năng chỉ đạo (lãnh đạo) và chức năng kiểm tra đánh giá. Đồng thời với việc thực hiện tốt bốn chức năng trên, người quản lý phải luôn luôn theo sát những diễn biến của quá trình thực hiện, phải nắm bắt được đầy đủ các thông tin, đặc biệt là các thông tin phản hồi từ những người trực tiếp tham gia hoạt động dạy học để xử lý và có những quyết định, biện pháp quản lý hiệu quả, kịp thời và chính xác nhất.

Trong nhà trường phổ thông nói chung và trường THCS nói riêng, để hoạt động dạy học đạt kết quả cao và luôn đi đúng hướng, thực hiện tốt nội dung chương trình và mục tiêu dạy học đã quy định, điều kiện tiên quyết là toàn bộ hoạt động ấy phải được quản lý một cách khoa học và chặt chẽ. Quản lý hoạt động dạy học trong trường phổ thông nói chung và trường THCS nói riêng bao gồm các nội dung cơ bản là: Quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên, quản lý hoạt động học tập của HS và quản lý CSVC, PTDH, các điều kiện phục vụ dạy học.

1.2.4. HĐDH môn toán

HĐDH môn Toán là hoạt động GV tổ chức, hướng dẫn, điều khiển học sinh tự mình chiếm lĩnh những kiến thức, kĩ năng cơ bản của Toán học và hình thành hoặc biến đổi những tình cảm, thái độ học tập ở HS. Các HĐDH môn Toán được thực hiện trong quá trình hình thành kiến thức toán học hoặc vận dụng nội dung kiến thức đó. HĐDH môn Toán ở trường THCS thường liên quan đến các dạng hoạt động sau:

Nhận dạng và thể hiện: một phương pháp, một quy tắc, một định lí,… Những hoạt động toán học phức hợp: định nghĩa, chứng minh, giải toán

quỹ tích, giải toán dựng hình,…

Những hoạt động trí tuệ phổ biến trong toán học: lật ngược vấn đề, xét tính giải được, phân chia trường hợp,…

Những hoạt động trí tuệ chung: phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa,…

Những hoạt động ngôn ngữ: khi yêu cầu HS phát biểu một tính chất, giải thích một định nghĩa, trình bày lời giải một bài toán,…

1.2.5. Quản lý HĐDH môn toán

Từ các khái niệm về quản lý, hoạt động dạy học nêu trên có thể hiểu: Quản lý HĐDH môn toán là những tác động có ý thức của chủ thể (HT) đến hoạt động dạy và học thông qua việc xây dựng kế hoạch, chỉ đạo, tổ chức và kiểm tra, đánh giá các hoạt động nhằm nhằm phát huy phẩm chất, năng lực của học sinh trong quá trình nhận thức, tạo điều kiện để học sinh phát triển toàn diện về nhân cách.

Mục tiêu của quản lý hoạt động dạy học là chất lượng, hiệu quả của hoạt động dạy và kết quả đạt được ở học sinh với sự phát triển toàn diện các mặt: Đức, Trí, Thể, Mỹ. Nói cách khác, mục tiêu của quản lý hoạt động dạy học là đảm bảo thực hiện đầy đủ các mục tiêu, kế hoạch đào tạo, nội dung chương trình giảng dạy theo đúng tiến độ và thời gian quy định (quản lý mục tiêu, nội dung) và đảm bảo hoạt động dạy học đạt kết quả cao (quản lý chất lượng).

Xem tất cả 141 trang.

Ngày đăng: 06/07/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí