6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn Tiếng Anh của giáo viên theo hướng tiếp cận năng lực học sinh.
- Chủ thể quản lý là hiệu trưởng trường THPT
- Địa bàn nghiên cứu:
+ Trường THPT Quang Trung.
+ Trường THPT Trà Lĩnh.
Thuộc huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng
- Đối tượng khảo sát: Cán bộ quản lý: 15 (Hiệu trưởng hiệu phó, tổ trưởng, tổ phó và giáo viên dạy Tiếng Anh và các GV sinh hoạt cùng tổ chuyên môn của GV Tiếng Anh, GV chủ nhiệm lớp: 34 người của 02 trường THPT Trà Lĩnh, trường THPT Quang Trung tỉnh Cao Bằng.
- Thời gian nghiên cứu từ tháng 11/2018 đến tháng 3/2019.
- Số liệu nghiên cứu lấy từ năm 2016 đến năm 2019.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh theo tiếp cận năng lực ở các trường THPT huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng - 1
- Quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh theo tiếp cận năng lực ở các trường THPT huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng - 2
- Dạy Học, Dạy Học Môn Tiếng Anh Theo Tiếp Cận Năng Lực
- Mục Tiêu Dạy Học Môn Tiếng Anh Theo Tiếp Cận Năng Lực
- Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Dạy Học Tiếng Anh Theo Tiếp Cận Năng Lực Ở Trường Thpt
Xem toàn bộ 151 trang tài liệu này.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp, hệ thống các tài liệu về quản lý giáo dục và quản lý nhà trường, các văn bản chỉ đạo của Bộ GDĐT, của Sở GDĐT về hoạt động dạy học môn Tiếng Anh và quản lý dạy học môn Tiếng Anh ở các trường phổ thông nhằm mục đích xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài luận văn.
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn, bao gồm:
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Sử dụng phiếu hỏi nhằm trưng cầu ý kiến của một số đối tượng là các cán bộ quản lý, giáo viên về công tác quản lý dạy học môn Tiền Anh theo định hướng phát triển năng lực học sinh các trường THPT huyện Trà Lĩnh.
7.2.2. Phương pháp quan sát
Quan sát hoạt động dạy và hoạt động học và cách xử lý tình huống của cán bộ quản lý, giáo viên môn Tiếng Anh các trường THPT huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng để bổ sung và kiểm chứng cho thực trạng nghiên cứu được bằng các phương pháp nghiên cứu khác.
7.3.3. Phương pháp chuyên gia
Xin ý kiến chuyên gia về tính cần thiết, tính khả thi của các biện pháp quản lý dạy học môn Tiếng Anh theo tiếp cận năng lực học sinh các trường THPT huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng.
7.2.4. Phương pháp phỏng vấn
Phỏng vấn một số đối tượng là các cán bộ quản lý, giáo viên, học sinh về dạy học môn Tiếng Anh theo định hướng phát triển năng lực học sinh và quản lý dạy học môn Tiếng Anh theo tiếp cận năng lực học sinh các trường THPT huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng.
7.3. Phương pháp xử lý số liệu bằng toán thống kê
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý và phân tích số liệu thu được từ quá trình điều tra thực trạng và khảo nghiệm các biện pháp.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, khuyến nghị, Danh mục tài liệu tham khảo và các Phụ lục, luận văn dự kiến được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý dạy học môn Tiếng Anh theo tiếp cận năng lực học sinh ở trường THPT.
Chương 2: Thực trạng quản lý dạy học môn Tiếng Anh theo tiếp cận năng lực học sinh ở các trường THPT Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng.
Chương 3: Biện pháp quản lý dạy học môn Tiếng Anh theo tiếp cận năng lực học sinh ở trường THPT Trà Lĩnh , tỉnh Cao Bằng.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC MÔN TIẾNG ANH THEO TIẾP CẬN NĂNG LỰC
HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các công trình nghiên cứu dạy học và dạy học môn Tiếng Anh theo tiếp cận năng lực học sinh
Những nghiên cứu về phát triển năng lực trong dạy học xuất hiện rất sớm trong lịch sử giáo dục, ngay từ thời cổ đại với những tên tuổi các triết gia như Socrate, Aristote, Platon, Lão Tử, Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử. Tiếp đến thời kì Trung cổ Châu Âu, nhiều nhà khoa học cũng xem xét vấn đề phát triển năng lực (Decarter, Diterverg, Pestalotsy, Comensky, J. Rutso,…) song thực sự chỉ quan tâm đến phát triển trí tuệ. Từ thế kỉ 19 đến nửa thế kỉ 20, phát triển trí tuệ vẫn được nhấn mạnh hơn cả. Thời đó phát triển năng lực hầu như được đồng nhất với phát triển năng lực trí tuệ (Guilford, Bine-Simon, J. Piaget, R. Bruner, V.V. Zancov, P.Ia. Galperin, V.V.) Cuối thế kỉ 20 khoa học giáo dục, đặc biệt tâm lí học giáo dục và tâm lí học phát triển đã mở rộng khái niệm năng lực - nó không chỉ là trí tuệ, và xuất hiện những quan niệm mới về năng lực gắn với vấn đề văn hóa (năng lực văn hóa), xã hội (năng lực xã hội), tình cảm (năng lực biểu cảm), sự tồn sinh (kĩ năng sống), chưa kể những thứ năng lực còn bí ẩn khác, trong đó có những yếu tố thuộc tiềm thức hoặc vô thức.
Ngày nay, tiếp cận năng lực trong giáo dục là vấn đề khoa học có phạm vi rất rộng lớn và tiêu biểu cho tư tưởng giáo dục hiện đại. Nó được các nhà khoa học trên thế giới thảo luận trên nhiều phương diện khác nhau. Cụ thể như sau:
Giáo dục dựa vào năng lực (Competency-based Education) hay Đào tạo dựa vào năng lực (Competency-based Training) hoặc Học tập dựa vào năng lực (Competency-based Learning) - bản chất tiếp cận này là cụ thể hóa triết lí giáo dục hướng vào người học, trước hết là năng lực của họ. Hướng vào người học là tư tưởng hiện đại mà nền tảng triết học đã được, Xavier Roegirs, L.X Vygotsky,
Dubois. D & Rothwell. W, John Dewey và J. Piaget xác lập có 2 khía cạnh: tận dụng năng lực có sẵn và phát triển năng lực mới của người học trong quá trình dạy học (dẫn theo [35]).
Dạy học dựa vào phong cách học tập (Learning Style-based Teaching) - là một hướng nghiên cứu tương đối mới nổi lên từ những năm 1970. Bởi lẽ phong cách học tập tích hợp cả khí chất, nét tính cách, tình cảm và năng lực nên dạy học theo phong cách học tập cũng là một chiến lược dạy học phân hóa theo tiếp cận năng lực. Thí dụ phổ biến nhất hiện nay là các chiến lược dạy học dựa vào lí thuyết đa trí tuệ.
Nghiên cứu những khía cạnh tương đối cụ thể trong giáo dục như đánh giá dạy học, phát triển chương trình, lập kế hoạch, giám sát, phát triển giáo viên và nhà quản lí giáo dục, phát triển học liệu, thiết kế dạy học v.v… theo tiếp cận năng lực.Đặc biệt có ý nghĩa là những nghiên cứu và khuyến cáo do UNESCO, UNDP, WB và ADB về phát triển chương trình trong giáo dục người lớn, xóa mù chữ, phổ cập giáo dục, quản lí trường học, đánh giá và giám sát dựa vào kết quả, quản lí dự án giáo dục v.v…
Theo S. Kerka (dẫn theo [22]), tiếp cận theo NL có những ưu thế nổi bật so với các cách tiếp cận khác trong dạy học. Việc chú trọng vào kết quả đầu ra và những tiêu chuẩn đo lường khách quan của những NL cần thiết để tạo ra các kết quả là điểm được các nhà hoạch định chính sách GD&ĐT và phát triển nguồn nhân lực đặc biệt quan tâm nhấn mạnh.
- Nghiên cứu mô hình năng lực trong dạy học
R.E. Boyatzid cho rằng phát triển dạy học dựa trên mô hình NL cần xử lý một cách có hệ thống ba khía cạnh sau: (1) xác định các NL, (2) phát triển chúng, và (3) đánh giá chúng một cách khách quan.
Để xác định được các NL, điểm bắt đầu thường là các kết quả đầu ra (outputs). Từ đó, đi đến xác định vai trò của những người có trách nhiệm phải tạo ra các kết quả đầu ra này. Một vai trò là một tập hợp các hành vi được mong đợi về một người theo những nghĩa vụ và địa vị công việc của người đó. Thuật ngữ
“vai trò công việc” đề cập tới việc thực hiện những nhiệm vụ thực sự của một người. Trên cơ sở của từng vai trò, xác định các NL cần thiết để có thể thực hiện tốt vai trò đó.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về quản lý dạy học theo tiếp cận năng lực học sinh
- Nghiên cứu về thiết kế chương trình dạy học theo định hướng phát triển năng lực
Các tác giả Đỗ Ngọc Thống [38]; Lương Việt Thái, Nguyễn Công Khanh
[32] cho rằng: chương trình dạy học định hướng NL là chương trình định hướng kết quả đầu ra, nhằm mục tiêu phát triển NL người học. Chất lượng đầu ra, có thể coi là “sản phẩm cuối cùng” của quá trình dạy học. Chương trình dạy học định hướng phát triển NL không quy định những nội dung dạy học chi tiết mà quy định những kết quả đầu ra mong muốn của quá trình giáo dục, trên cơ sở đó đưa ra những hướng dẫn chung về việc lựa chọn nội dung, phương pháp, tổ chức và đánh giá kết quả dạy học nhằm đảm bảo thực hiện được mục tiêu dạy học tức là đạt được kết quả đầu ra mong muốn. Trong chương trình định hướng phát triển NL, mục tiêu học tập, tức là kết quả học tập mong muốn thường được mô tả thông qua hệ thống các NL. Kết quả học tập mong muốn được mô tả chi tiết và có thể quan sát, đánh giá được. Người học cần đạt được những kết quả, yêu cầu đã quy định trong chương trình.
- Nghiên cứu về tổ chức hoạt động dạy học theo định hướng phát triển năng lực
Các tác giả Đặng Quốc Bảo và Nguyễn Sỹ Thu [5], tổ chức dạy học theo định hướng phát triển NL là giúp người học thấu hiểu “Học để làm gì - Học cái gì” để có NL đích thực; đồng thời bồi dưỡng cho người học cách “Học hiệu quả” để có NL bền vững. Bên cạnh đấy, các tác giả còn chỉ ra những NL tư duy nền tảng cần trang bị cho người học trong quá trình dạy học, đó là: Tư duy nguyên tắc (thông thạo một lĩnh vực chính và ít nhất một lĩnh vực chuyên môn); Tư duy tổng hợp (biết hợp nhất các ý kiến chuyên môn khác nhau thành một tổng thể, gắn tổng thể này với tổng thể khác); Tư duy sáng tạo (biết khám phá và làm rõ những vấn
đề, những đòi hỏi của thực tiễn); Tư duy tôn trọng (nhận biết và thấu hiểu sự khác biệt giữa các dòng tư tưởng); Tư duy đạo đức (hoàn thành trách nhiệm là một người lao động).
Một số tác giả khác lại cho rằng, để tổ chức hiệu quả hoạt động dạy học theo định hướng phát triển NL cần chú ý đến việc sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, tạo điều kiện tốt nhất cho người học thực hành, vận dụng kiến thức trong những tình huống đa dạng. Nếu trong quá trình dạy học, người dạy không tổ chức được các hoạt động học tập phù hợp cho người học thì không thể hình thành được ở họ những NL mong muốn - điều mà dạy học theo tiếp cận phát triển NL hướng tới (dẫn theo [39]).
- Nghiên cứu về đánh đánh giá kết quả dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học.
Một số tác giả cho rằng:Không thể phán đoán được sự thành công của người học hoặc của một chương trình dạy học nếu như không có chứng cứ về mức độ đạt được các NL ở người học. Đó chính là lý do cần có sự đánh giá trong dạy học.
Tác giả Nguyễn Công Khanh cho rằng: có nhiều cách tiếp cận đánh giá kết quả dạy học như đánh giá định tính (qualitative assessment); đánh giá dựa trên kết quả thực hiện (performance-based assessment); đánh giá theo chuẩn (standard - based assessment); đánh giá theo năng lực (competence - based assessment); đánh giá theo sản phẩm đầu ra (outcome - based assessment) [32].
Đánh giá kết quả dạy học theo cách tiếp cận NL là đánh giá theo chuẩn về sản phẩm đầu ra nhưng sản phẩm đó không chỉ là kiến thức, kĩ năng, mà chủ yếu là khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng và thái độ cần có để thực hiện nhiệm vụ học tập đạt tới một chuẩn nào đó.
Đặc trưng của đánh giá NL là sử dụng nhiều phương pháp khác nhau tập trung đánh giá NL hành động, vận dụng thực tiễn, NL tự học, NL giải quyết vấn đề, NL tư duy sáng tạo, NL giao tiếp, NL phát triển bản thân…
Đánh giá NL dựa trên sự miêu tả các sản phẩm đầu ra cụ thể, rõ ràng tới mức người dạy, người học và các bên liên quan đều có thể hình dung tương đối
khách quan và chính xác về thành quả của người học sau quá trình học tập. Đánh giá cũng cho phép nhìn ra tiến bộ của người học dựa trên mức độ thực hiện các sản phẩm [4], [4].
Còn theo tác giả Nguyễn Thanh Ngọc Bảo, đánh giá theo NL “chính là đánh giá khả năng vận dụng, thực hiện các nhiệm vụ cụ thể, thực tế và phát triển tư duy bậc cao (phân tích, tổng hợp, đánh giá) của người học chứ không dừng lại ở mức độ đánh giá phân hóa riêng rẽ các phương diện kiến thức, kỹ năng, thái độ”. Đánh giá theo NL không chỉ là đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ học tập của người học mà phải hướng tới việc đánh giá khả năng vận dụng kiến thức, kỹ năng và thái độ của người học để thực hiện nhiệm vụ học tập theo một chuẩn nhất định. Do vậy, đánh giá theo NL chủ yếu là đánh giá dựa trên hoạt động thực hiện và áp dụng kiến thức vào thực tế của học sinh [11].
- Những nghiên cứu chuyên biệt về tiếp cận năng lực trong giáo dục theo hướng chuẩn hóa dạy học, quản lí giáo dục, phát triển giáo viên và nhà quản lí giáo dục.
Kết quả nghiên cứu đã được báo cáo trong các Hội thảo khoa học và đề tài của Bộ Giáo dục và đào tạo; Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Viện Khoa học giáo dục; Học viện quản lí giáo dục cũng như những nghiên cứu về kiểm định, đảm bảo và đánh giá chất lượng giáo dục của Đại học quốc gia Hà Nội. Một số kết quả nghiên cứu lí luận được công bố qua các công trình của Đặng Thành Hưng [29], [28]; Lương Việt Thái; Đỗ Ngọc Thống [38].
Tác giả Đặng Thành Hưng [29] đã đề xuất Khung năng lực giáo dục phổ thông theo 7 lĩnh vực tương ứng với 7 lĩnh vực giáo dục: 1. Năng lực Toán và Logic; 2. Năng lực ngôn ngữ (quốc ngữ và ngoại ngữ); 3. Năng lực khoa học; 4. Năng lực nghệ thuật; 5. Năng lực thể chất và vận động thể chất, 6. Năng lực công nghệ, 7. Năng lực công dân. Tác giả cũng đề xuất kĩ thuật thiết kế nội dung học tập theo tiếp cận năng lực dựa vào lí thuyết phát triển chuẩn, lí thuyết đánh giá và minh họa qua Khung năng lực ngôn ngữ ở giáo dục phổ thông.
Một số nghiên cứu đã xác định bản chất của tiếp cận năng lực trong giáo dục dựa trên quan niệm mới về năng lực, và khái niệm năng lực được giải thích trong tiếp cận này bao hàm toàn bộ quá trình dạy học, cả đầu ra, đầu vào và quá trình học tập. Năng lực trong tiếp cận năng lực đang bàn ở đây đòi hỏi một mặt người học phải có nền tảng năng lực của mình, vừa phải huy động và tích lũy năng lực trong học tập và biến nó thành sức mạnh cá nhân để học tập hiệu quả, và nhà giáo phải dựa vào đó để phát triển hơn nữa năng lực của người học thể hiện ở sản phẩm đầu ra khác biệt với năng lực đầu vào.
Bộ Giáo dục đã ban hành nhiều văn bản và tài liệu hướng dẫn, tổ chức các hội thảo ở nhiều cấp độ về đảm bảo chất lượng môn ngoại ngữ trong nhà trường THPT, nâng cao hiệu quả dạy học môn Tiếng Anh, đổi mới PP giảng dạy...
Vấn đề kinh nghiệm dạy học ngoại ngữ ở một số nước trên thế giới và trong khu vực trong đó có công tác quản lý đã được đề cập đến khá chi tiết trong “Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020”, Hà Nội, 2008. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như: “Teaching English Cambridge University Press, 1995” của Adrian Doff; “Những vấn đề cơ bản về dạy học ngoại ngữ”.
Tiếng Anh không đứng tách rời các môn học khác nên phần lớn các biện pháp quản lý dạy học nói chung đều có thể áp dụng được khi nghiên cứu biện pháp quản lý hoạt động dạy - học môn Tiếng Anh. Có thể đề cập đến các công trình nghiên cứu sau: Nguyễn Trọng Hậu. Đại cương khoa học quản lý giáo dục, Bài giảng cho cao học quản lý giáo dục, Hà Nội, 2009; Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc. Đại cương khoa học quản lý, 2010;
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đều đã đề cập đến vấn đề quản lý hoạt động dạy học nói chung và quản lý dạy học theo tiếp cận năng lực. Nhưng nghiên cứu QLHD theo tiếp cận năng lực học sinh gắn với 1 môn học cụ thể ở huyện thuộc khu vực miền núi nơi có nhiều học sinh người dân tộc thiểu số thì còn vắng bóng.