Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam - 11

Để đảm bảo cho việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa cần thực hiện đúng nguyên tắc bản án chỉ căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa. Thẩm phán, Hội đồng xét xử chỉ căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân chứng và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để đưa ra những bản án, quyết định đúng pháp luật có sức thuyết phục.

3.4.2. Nâng cao tính độc lập trong hoạt động xét xử của Thẩm phán

Khi xét xử bất kỳ một vụ án nào, ở bất kỳ cấp xét xử nào, khi được phân công làm chủ toạ hay tham gia Hội đồng xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm không bị phụ thuộc vào bất cứ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào trong việc đưa ra ý kiến hay phán quyết đối với nội dung vụ án. Tuy Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân có thể tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn, của bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào hay có thể nắm bắt dư luận xã hội, nhưng khi ban hành các quyết định tố tụng hoặc bản án thì Thẩm phán và Hội thẩm phải thể hiện bản lĩnh nghề nghiệp của mình, xem xét mọi vấn đề một cách độc lập, không được để cho ý kiến bên ngoài làm ảnh hưởng tới tính khách quan của vụ án.

Tòa án độc lập xét xử vụ án chỉ tuân theo pháp luật không thoát li khỏi sự lãnh đạo của các Cấp ủy đảng. Đảng không được bao biện, làm thay, không được lợi dụng quyền lực để can thiệp vào vụ việc cụ thể của Hội đồng xét xử. Qua đó đảm bảo cho việc hiện thực hóa các quy định, đường lối chính sách của Đảng được vận hành thực thi có hiệu quả trên thực tế.

Chánh án không được can thiệp chỉ đạo Thẩm phán, Hội đồng xét xử về nội dung, đường lối xét xử, áp dụng pháp luật của từng vụ án cụ thể. Chánh án khi tham gia xét xử với tư cách là Thẩm phán có quyền và nghĩa vụ bình đẳng với các thành viên khác trong Hội đồng xét xử. Chánh án tạo điều kiện để Thẩm phán độc lập thực hiện nhiệm vụ xét xử của mình.

3.4.3. Đổi mới về cơ chế hoạt động của Tòa án trên cơ sở đó hoàn thiện vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự

Quán triệt đầy đủ nội dung về Chiến lược cải cách tư pháp đã được định hướng trong các Nghị quyết, văn kiện của Đảng đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24-5-2005 “Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”; Báo cáo tổng kết 8 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW và Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/03/2014 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49/NQ/TW, cụ thể như sau:

1) Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, với mục tiêu là xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.

2) Hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, theo hướng kế thừa những ưu điểm của mô hình tố tụng thẩm vấn và tiếp thu có chọn lọc những yếu tố tiến bộ của mô hình tố tụng tranh tụng, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người; kết hợp chặt chẽ việc đổi mới thủ tục tố tụng tư pháp với việc cải cách thủ tục hành chính tư pháp phù hợp với hoạt động tư pháp.

3) Đổi mới thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý và tiếp tục đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

4) Tăng quyền và trách nhiệm cho Thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình.

5) Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư.

Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam - 11

6) Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định.

7) Tiếp thu những giá trị chung của các nước có nền tư pháp phát triển để áp dụng phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế.

8) Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Tòa án; Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

3.4.4. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật để nâng cao vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự

1) Thẩm phán giữ vị trí quan trọng trong hoạt động xét xử, đây là giai đoạn trung tâm của hoạt động tố tụng hình sự. Vì vậy cần hoàn thiện các quy định của pháp luật để nâng cao vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự hiện nay cần phải đổi mới toàn diện chương trình, giáo trình, phương pháp đào tạo Thẩm phán hướng tới mục tiêu Thẩm phán phải vững vàng về chuyên môn, giỏi về kỹ năng thực hành. Cùng với Thẩm phán, các Hội thẩm nhân dân cũng phải được bồi dưỡng, tập huấn nâng cao kiến thức pháp luật, kỹ năng xét xử để đủ năng lực khi tham gia hoạt động xét xử.

2) Đổi mới quy trình bổ nhiệm Thẩm phán theo hướng rút ngắn thủ tục, giảm sự can thiệp của các cơ quan chính quyền địa phương. Trong khi đó nhiệm kỳ 5 năm đối với Thẩm phán các cấp hiện nay là quá ngắn. Vì vậy, để Thẩm phán yên tâm công tác, tận dụng được tối đa kinh nghiệm xét xử và dám thể hiện bản lĩnh nghề nghiệp, thì cần đổi mới cơ chế bổ nhiệm theo hướng Thẩm phán được bổ nhiệm suốt đời, hoặc kéo dài thêm nhiệm kỳ của Thẩm phán.

3) Tăng cường công tác giám sát, công tác kiểm tra, thanh tra trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, của nhân dân đối với hoạt động xét xử của Thẩm phán. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên tập trung làm tốt công tác giám sát, động viên nhân dân phát hiện những hạn chế, khuyết điểm trong công tác xét xử của Tòa án, qua đó, kiến nghị việc khắc phục, sửa chữa. Đồng thời, nâng cao chất lượng hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền, cung cấp thông tin về hoạt động xét xử.

4) Nghiên cứu, sửa đổi một cách tổng thể chế độ, chính sách đãi ngộ cho Thẩm phán. Nhà nước phải đảm bảo về đời sống vất chất “cần đủ” cho đội ngũ Thẩm phán suốt đời để tăng “sức đề kháng” trước cám dỗ vật chất. Việc khen thưởng Thẩm phán, tăng lương, tăng ngạch nên thực hiện theo kênh độc lập, không theo phương pháp quản lý đặc trưng của hệ thống hành chính.

5) Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, tránh chồng chéo, mâu thuẫn với nhau; các văn bản hướng dẫn thi hành và giải thích luật phải kịp thời. Có như vậy mới tạo điều kiện cho Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử có cơ sở pháp lý vững chắc và chỉ tuân theo pháp luật.

Kết luận Chương 3


Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị "Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” xác định mục tiêu chiến lược là xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.

Cải cách tư pháp được triển khai theo 4 định hướng cơ bản:

1) Hoàn thiện thể chế hình sự, dân sự, thủ tục tư pháp;

2) Cải cách tổ chức các cơ quan tư pháp và các thiết chế bổ trợ tư pháp mà trung tâm là Tòa án và khâu đột phá là tăng cường tranh tụng dân chủ;

3) Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp;

4) Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp.

Như vậy, từ các Nghị quyết, Kết luận của Bộ Chính trị, cho đến Hiến pháp năm 2013 cho thấy: Quan điểm, đường lối, mục tiêu xuyên suốt trong chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta là công cuộc cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm ổn định chính trị và bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp; Cải cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc gắn với cải cách hành chính và đổi mới công tác lập pháp; Cải cách tư pháp phải được tiến hành có trọng tâm, trọng điểm với những bước đi vững chắc, đảm bảo tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ

quyền con người; cải cách tư pháp phải hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự, dân sự, kế thừa những thành tựu đạt được của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của nước ta; chủ động hội nhập quốc tế, đáp ứng xu thế phát triển của xã hội.

Cải cách tư pháp theo tinh thần và nội dung của Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Đảng ta, cần phải có sự nhận thức đúng về vị trí, vai trò của Toà án trong bộ máy nhà nước. Tòa án có những đặc thù khác so với các cơ quan khác và giữ vị trí trung tâm trong hệ thống tư pháp của nước ta. Tòa án nhân danh Nhà nước, thể hiện bản chất và hiệu lực của Nhà nước, với vị trí như vậy công cuộc cải cách tư pháp đòi hỏi ngành Toà án phải đáp ứng những yêu cầu như: cải cách phải mang tính đồng bộ, đảm bảo tính độc lập; đảm bảo xét xử phải công khai, nghiêm minh và công bằng; đảm bảo quyền cơ bản của công dân, cũng như sự giám sát của nhân dân trong hoạt động xét xử.

Từ những yêu cầu chung đó, công cuộc cải cách tư pháp đặt ra những yêu cầu cụ thể đối với Tòa án và Thẩm phán. Trên cơ sở nghiên cứu các yêu cầu cải cách tư pháp, đối chiếu với pháp luật hiện hành, Chương 3 tác giả đã đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện vai trò của Thẩm phán đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp của nước ta trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.

KẾT LUẬN

Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị Về chiến lược cải cách tư pháp đến 2020 đã chỉ rõ nhiều nội dung cụ thể về cải cách tư pháp đòi hỏi phải được thể chế hóa, tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nói chung cũng như vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự nói riêng. Để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay, Thẩm phán phải thực sự độc lập, được hưởng ưu đãi, miễn trừ tư pháp và được bảo vệ theo cơ chế đặc biệt. Giữa các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân hoàn toàn độc lập với nhau, ngay cả những việc như trao đổi với nhau về các tình tiết, cách xử lý vụ án, vụ việc, nhất là về kết quả xét xử mang tính định kiến cũng coi như xâm phạm đến nguyên tắc độc lập chỉ tuân theo pháp luật. Thẩm phán Hội thẩm, Hội đồng xét xử hoàn toàn độc lập trong quá trình hoạt động chuyên môn, đặc biệt là trong các phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc không ai có quyền xâm phạm, can thiệp gây ảnh hưởng công việc và sự vô tư của họ.

Việt Nam ngày càng tham gia sâu rộng vào quá trình liên kết và hợp tác khu vực và quốc tế, thuận lợi là cơ bản nhưng cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với ngành Tòa án, đó là cần sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật trong nước để đảm bảo phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Cùng với việc phát triển kinh tế, xã hội, tăng cường hội nhập Quốc tế hiện nay, bên cạnh những thành tựu mà đất nước ta đã đạt được thì bên cạch đó cũng phát sinh nhiều vấn đề cần phải giải quyết trong đó vấn đề tội phạm ngày càng tăng về số lượng, rộng hơn về quy mô có liên quan đến nhân tố trong nước và ngoài nước, về tình chất phức tạp, về âm mưu và thủ đoạn. Vì vậy, vấn đề đạt ra cho công tác xét xử của Tòa án ngày càng nặng nề hơn,

khó khăn, phức tạp hơn và những công việc đó đều đặt trên vai của những người Thẩm phán.

Trước những yêu cầu cấp bách trên thì việc nâng cao vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng nói chung và tố tụng hình sự nói riêng là yêu cầu khách quan, là những giải pháp quan trọng để thực hiện chủ trương cải cách tư pháp hiện nay nói chung và nâng cao chất lượng hiệu quả của Tòa án nói riêng nhằm đáp ứng mọi yêu cầu của xã hội, của nhân dân trong việc bảo vệ quyền công lý, quyền con người. Để nâng cao hiệu quả xét xử các vụ án hình sự của Tòa án cũng như nâng cao vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự cần phải tiếp tục được nghiên cứu, có những giải pháp cụ thể, thích hợp phù hợp với điều kiện của từng giai đoạn của quá trình cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.

Do phạm vi nghiên cứu đề tài rộng, bản thân tác giả là người là công tác thực tiễn tại cơ quan Thi hành án dân sự cấp huyện, tác giả chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu vai trò, của Thẩm phán ở giai đoạn xét xử sơ thẩm về các vụ án hình sự nên đề tài không tránh khỏi những khiếm khuyết và thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được các ý kiến phản biện, đóng góp của các chuyên gia, các thầy cô giáo và các bạn để đề tài này có thể được nghiên cứu chuyên sâu hơn.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 20/05/2022