Quản Lý Mục Tiêu, Chương Trình, Kế Hoạch Dạy Học

thực hóa một cách toàn diện, đồng bộ và hiệu quả. Có nhiều nguyên nhân: một số tác giả chưa nắm vững và chưa thể hiện được tư tưởng này trong biên soạn Sách giáo khoa; công tác đào tạo, bồi dưỡng GV về phương pháp mới chưa cập nhật, kiểm tra đánh giá chưa đổi mới, chưa đồng bộ…

1.3.3.2. Đặc điểm dạy học môn Lịch sử

Bộ môn Lịch sử ở THCS có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, khoa học được quy định trong chương trình. Nhiệm vụ này cũng giống như tất cả các bộ môn khoa học khác. Tuy nhiên, bộ môn Lịch sử cũng có những đặc trưng trong dạy học riêng do đặc điểm của hệ thống kiến thức cấu thành nên nó.

Kiến thức lịch sử mang tính quá khứ: Đây là điều khác biệt giữa hiện tượng lịch sử với các hiện tượng tự nhiên. Điều này tạo ra những khó khăn nhất định trong việc giảng dạy lịch sử song xét ở góc độ khác nó lại mang lại cho việc giảng dạy lịch sử những ưu thế mà các bộ môn khác không thể có được. Ví dụ, nó rất có ích trong việc bồi dưỡng và phát triển trí tưởng tượng cho học sinh.

Kiến thức lịch sử mang tính không lặp lại về thời gian và cả không gian. Chính điều này đặt ra yêu cầu khi trình bày một sự kiện, hiện tượng nào đó trong lịch sử phải xem xét tính cụ thể cả về thời gian và không gian làm nảy sinh sự kiện, hiện tượng đó. Qua đó nhận thấy các sự kiện lịch sử cụ thể, riêng biệt song có mối quan hệ kế thừa.

Kiến thức lịch sử mang tính cụ thể cũng là đặc điểm nổi bật của kiến thức lịch sử. Chính đặc điểm này đòi hỏi việc trình bày các sự kiện, hiện tượng lịch sử càng cụ thể bao nhiêu, càng sinh động bao nhiêu lại càng hấp dẫn bấy nhiêu. Nếu tách sự kiện ra khỏi không gian, thời gian, nhân vật thì không thể hiểu được lịch sử, các sự kiện lịch sử sẽ chỉ là một tập hợp tư liệu ngổn ngang không có ý nghĩa. Các di tích lịch sử cách mạng được lưu giữ ở các địa phương đều gắn liền với những sự kiện, biến cố lịch sử cụ thể. Việc sử dụng những di tích

này trong dạy học, đặc biệt khi tổ chức cho các em học sinh được học tại thực địa sẽ tạo cho bài học không khí sôi nổi hơn, làm cho học sinh cảm thấy như đang được chứng kiến sự kiện diễn ra một cách chân thực nhất.

Kiến thức lịch sử còn mang tính hệ thống (lôgíc lịch sử). Không có sự kiện nào là tồn tại đơn lẻ, riêng rẽ mà nó có mối liên hệ với những sự kiện trước nó, sau nó và đồng thời với nó. Do đó, nếu sử dụng tốt các di tích lịch sử cách mạng vào dạy học bộ môn sẽ giúp học sinh có được một cái nhìn toàn diện, hệ thống về các sự kiện, hiện tượng lịch sử với tất cả những đặc trưng kinh tế, chính trị văn hoá - xã hội... của từng giai đoạn, từng thời kì lịch sử.

Xuất phát từ những đặc trưng này ta thấy, nếu như các bộ môn khoa học tự nhiên như vật lí, hoá học, học sinh có thể thực hiện trong phòng thí nghiệm thì với các sự kiện lịch sử, các em không được trực tiếp quan sát cũng không thể mô hình hoá lại trong phòng thí nghiệm, đúng như nó đã tồn tại.

Hiểu được đặc điểm này, trong dạy học Lịch sử ở trường THCS, GV phải vận dụng nhuần nhuyễn nhiều phương pháp dạy học, trong đó đồ dùng trực quan, nhất là các đồ dùng trực quan hiện vật (các di tích lịch sử cách mạng) góp một phần không nhỏ quyết định thành bại trong việc cung cấp kiến thức cho HS. Giúp HS không chỉ "biết" mà còn hiểu lịch sử đã diễn ra như thế nào một cách chân thực, sống động nhất.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

1.3.3.3. Đặc điểm dạy học môn Địa lý

Học tập Địa lí là quá trình nhận thức những sự vật, đối tượng, hiện tượng và quá trình về tự nhiên, dân cư, kinh tế - xã hội đã diễn ra trong quá khứ, hiện tại và dự báo sự biến đổi trong tương lai. Trong quá trình học tập, HS cần học tập qua tài liệu, kết hợp với quan sát, khảo sát điều tra các sự vật, đối tượng và hiện tượng tự nhiên, dân cư, kinh tế - xã hội ở thực địa và ứng dụng công nghệ thông tin, từ đó góp phần hình thành biểu tượng, khái niệm địa lí, so sánh, xác lập các mối quan hệ địa lí.

Quản lý hoạt động dạy học các môn khoa học xã hội tại các trường trung học cơ sở thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh - 5

Các sự vật, đối tượng, hiện tượng và quá trình địa lí tự nhiên, dân cư, kinh tế - xã hội không tồn tại độc lập mà có quan hệ mật thiết với nhau, hiện

tượng địa lí này là nguyên nhân và kết quả của các hiện tượng địa lí khác và cùng tồn tại trên phạm vi lãnh thổ. Vì vậy, học tập địa lí cần tư duy trên quan điểm tổng hợp theo lãnh thổ. Việc tự học, tự nghiên cứu và sáng tạo là những nhiệm vụ hết sức quan trọng và hiệu quả trong quá trình học tập bộ môn.

Bản đồ vừa là phương tiện dạy học, vừa là nguồn tài liệu khoa học độc lập, là đối tượng nghiên cứu của môn Địa lí và được coi như "sách giáo khoa của Địa lí". Nhiệm vụ của sử dụng bản đồ là thu nhận những thông tin được biểu hiện trên bản đồ để phân tích, so sánh đối chiếu nhằm tìm ra những đặc điểm, các quy luật phân bố, các mối liên hệ, các quá trình biến đổi của các đối tượng, hiện tượng địa lí trên lãnh thổ nghiên cứu.

1.3.3.4. Đặc điểm dạy học môn Giáo dục công dân

Chương trình môn GDCD ở THCS đề cập về những chuẩn mực đạo đức và pháp luật cơ bản, phổ thông, thiết thực và phù hợp với lứa tuổi học sinh THCS trong các quan hệ: với bản thân, với người khác, với công việc và với môi trường sống ( bao gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội). Việc dựa vào nội dung, cấu trúc trên của chương trình môn GDCD ở THCS, ta có thể vận dụng phương pháp dạy học tích hợp theo các chủ đề đạo đức, pháp luật hoặc theo chủ đề của 4 mối quan hệ cơ bản: bản thân, công việc, gia đình và xã hội. Bên cạnh đó, ta có thể vận dụng phương pháp tích hợp liên môn các môn học xã hội như : Văn, Sử, Địa vào trong giảng dạy môn học này.

- Dạy học GDCD phải chú ý đến việc rèn luyện kỹ năng và giáo dục thái độ, hành vi đúng đắn của HS; phải gắn với thực tế cuộc sống, hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức đã học để phân tích, giải quyết các tình huống, các vấn đề trong cuộc sống.

- Kết hợp sáng tạo các phương pháp truyền thống (thuyết giảng, vấn đáp, trực quan …) với các phương pháp hiện đại (động não, thảo luận nhóm, đóng vai, tình huống, giải quyết vấn đề, dự án …) để phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; tạo hứng thú học tập cho HS. Sử dụng hợp lý hình

thức học cá nhân, theo nhóm, theo lớp; hình thức dạy trong lớp, ngoài lớp, ngoài trường.

- Tích hợp một cách hợp lý vào bài học các nội dung cần giáo dục cho HS như: trật tự an toàn giao thông; môi trường; phòng chống HIV/AIDS, ma tuý, tệ nạn xã hội…

1.3.4. Quản lý hoạt động dạy học các môn KHXH

Quản lý hoạt động dạy học các môn KHXH là một quá trình phức tạp bao gồm nhiều vấn đề cần quản lý như: Mục tiêu quản lý; Nội dung quản lý; Hình thức quản lý; Phương pháp quản lý; Công tác kiểm tra, đánh giá dạy học các môn KHXH.. Do tính chất rộng rãi của việc quản lý hoạt động dạy học các môn KHXH nên trong khuôn khổ đề tài này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu một số nội dung chủ yếu sau:

1.3.4.1. Quản lý mục tiêu, chương trình, kế hoạch dạy học

Thực hiện tốt kế hoạch đào tạo theo mục tiêu đào tạo của trường THCS. Mục tiêu, chương trình là pháp lệnh của Nhà nước do Bộ GD&ĐT ban hành. Mục tiêu, chương trình dạy học các môn KHXH quy định nội dung từng môn học, chi tiết đến từng phần, từng chương, từng bài học.

Để quản lý nghiêm túc và có hiệu quả việc thực hiện mục tiêu, chương trình, kế hoạch dạy học các môn KHXH, Hiệu trưởng phải nghiên cứu, nắm vững biên chế năm học, chương trình và kế hoạch dạy học các môn KHXH ở từng khối lớp và cả cấp học. Cụ thể là Hiệu trưởng phải nắm vững và quán triệt cho giáo viên nắm vững những vấn đề sau: Những nguyên tắc cấu tạo chương trình dạy học các môn KHXH cấp THCS; nguyên tắc cấu tạo chương trình, nội dung, phạm vi kiến thức của từng môn học; phương pháp dạy học chung và các hình thức dạy học của các môn KHXH; kế hoạch dạy học các môn KHXH của từng lớp học.

Bên cạnh đó, Hiệu trưởng nắm tiến độ thực hiện chương trình các môn KHXH thông qua lịch báo giảng, qua dự giờ, thăm lớp và qua kiểm tra giáo án

của giáo viên. Hiệu trưởng sử dụng thời khoá biểu để điều khiển, kiểm soát việc thực hiện chương trình của giáo viên, chỉ đạo các tổ chuyên môn tổ chức định kỳ việc rút kinh nghiệm, đánh giá tiến độ, tình hình thực hiện chương trình, thảo luận những vấn đề khó, nội dung hay của chương trình để nhanh chóng tháo gỡ; tổ chức tiến hành phân tích tình hình thực hiện chương trình và đánh giá trong các buổi họp của nhà trường.

1.3.4.2. Quản lý hồ sơ chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên

Hồ sơ và công tác chuẩn bị các trang thiết bị phục vụ cho giờ lên lớp là yếu tố quyết định đến chất lượng giờ dạy. Tuy không thể dự kiến hết các tình huống trong quá trình lên lớp nhưng soạn bài thực sự là lao động sáng tạo của từng giáo viên, nó thể hiện sự đầu tư suy nghĩ, trăn trở, lựa chọn, quyết định của giáo viên về nội dung, phương pháp giảng dạy, hình thức lên lớp phù hợp với đối tượng học sinh và đúng với yêu cầu của chương trình.

Để việc soạn bài, chuẩn bị giờ lên lớp có thể thực hiện theo một kế hoạch đồng bộ và hiệu quả, Hiệu trưởng cần hướng dẫn GV lập kế hoạch soạn bài, chỉ đạo tổ chuyên môn xã hội thảo luận, thống nhất mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học của mỗi tiết dạy để giờ lên lớp đạt kết quả tốt nhất. Ban giám hiệu, Tổ trưởng chuyên môn phải thường xuyên kiểm tra, theo dõi việc soạn bài của GV, kịp thời khuyến khích, động viên và điều chỉnh những sai lệch nhằm thực hiện đúng những quy định đề ra.

1.3.4.3. Quản lý hoạt động dạy học trên lớp và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp của GV

Hoạt động dạy học các môn Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý trong nhà trường THCS hiện nay chủ yếu diễn ra bằng hình thức dạy và học trên lớp. Giờ lên lớp là hình thức tổ chức cơ bản và chủ yếu nhất của quá trình dạy học các môn KHXH trong nhà trường để thực hiện mục tiêu cấp học. Giờ lên lớp là một khâu quan trọng trong quá trình dạy học được kết thúc trọn vẹn trong khuôn khổ nhất định về thời gian theo quy định. Do đó, trong mỗi giờ lên lớp, hoạt

động dạy của GV và hoạt động học của HS đều thực hiện dưới sự tác động tương hỗ giữa các yếu tố cơ bản của quá trình dạy học, đó là mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức dạy học.

GV là người trực tiếp quyết định kết quả giờ lên lớp, còn quản lý thế nào để các giờ lên lớp của GV đạt kết quả tốt là trách nhiệm của CBQL. Do vậy, CBQL phải có những giải pháp tác động cụ thể, phong phú và linh hoạt để nâng cao chất lượng giờ lên lớp của GV. Xây dựng tiêu chuẩn để đánh giá giờ dạy của giáo viên là một yêu cầu hết sức cần thiết nhưng cần phải dựa trên văn bản quy định của Bộ GD&ĐT và hướng dẫn đánh giá giờ dạy của Sở GD&ĐT. Mặt khác, do hình thức tổ chức lên lớp khác nhau tuỳ thuộc vào từng bài học, đối tượng... nên đòi hỏi hệ thống tiêu chuẩn giờ lên lớp phải linh hoạt và phù hợp với tình hình cụ thể của mỗi lớp, chúng không hoàn toàn giống nhau nhưng cũng không được trái với lý luận dạy học các môn KHXH. Điều quan trọng để quản lý tốt giờ lên lớp, CBQL phải xây dựng thời khóa biểu cho giờ lên lớp một cách khoa học, phù hợp, đồng thời, phải có kế hoạch và tiến hành dự giờ, thăm lớp định kỳ, đột xuất; phân tích, rút kinh nghiệm cho giờ dạy. Thông qua việc dự giờ, thăm lớp, người quản lý sẽ thấy được trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm của giáo viên; từ đó phân tích, hướng dẫn giáo viên khắc phục những mặt yếu trong giảng dạy của họ.

Ngoài ra, người CBQL còn quản lý các hoạt động ngoài giờ lên lớp của tổ chuyên môn có các môn xã hội thông qua kế hoạch năm học của nhà trường, kế hoạch đăng ký tổ chức hoạt động ngoài giờ, chủ đề hoạt động ngoài giờ của cá nhân, tập thể. Qua hoạt động này, người CBQL có thể đánh giá toàn diện về năng lực của GV.

1.3.4.4. Quản lý việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học

Phương pháp dạy học các môn KHXH là tổ hợp các cách thức cộng tác, hoạt động cùng nhau của cả thầy và trò nhằm đạt mục đích, mục tiêu dạy học nói chung. Phương pháp dạy học các môn KHXH luôn được đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với các thành tố khác của quá trình dạy học. Đó là mối quan

hệ giữa mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức, kết quả và nhất là mối quan hệ giữa thầy và trò trong dạy học, tiếp cận các môn KHXH.

Quản lý việc đổi mới phương pháp giảng dạy các môn KHXH là quá trình tác động có tổ chức, có mục đích của hiệu trưởng đến đội ngũ sư phạm nhằm tạo được động lực dạy tốt, GV tích cực giảng dạy theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của HS.

Để thực hiện tốt việc quản lý đổi mới phương pháp dạy học các môn KHXH, Hiệu trưởng cần tổ chức cho GV nghiên cứu, thảo luận để nhận thức sâu sắc về yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học các môn KHXH nhằm nâng cao chất lượng dạy học các môn KHXH, đồng thời nắm vững về phương pháp dạy học các môn KHXH theo hướng tích cực hoá hoạt động của HS để thực hiện. Trong quá trình quản lý việc đổi mới phương pháp dạy học các môn KHXH, Hiệu trưởng cần chỉ đạo và kiểm tra việc GV đổi mới cách kiểm tra, đánh giá HS vì đây là một khâu quan trọng trong đổi mới cách dạy, cách học, nhằm giúp học sinh phát triển toàn diện.

1.3.4.5. Quản lý việc sinh hoạt tổ chuyên môn

Trong nhà trường phổ thông, tổ chuyên môn được quy định ở điều 16 chương II Điều lệ trường Trung học: “Hiệu trưởng, các Phó Hiệu trưởng, giáo viên, viên chức thư viện, viên chức thí nghiệm của trường trung học được tổ chức thành tổ chuyên môn theo môn học hoặc nhóm môn học ở từng cấp học trung học cơ sở, trung học phổ thông. Mỗi tổ chuyên môn có tổ trưởng và từ 1 đến 2 tổ phó chịu sự quản lý chỉ đạo của Hiệu trưởng, do Hiệu trưởng bổ nhiệm và giao nhiệm vụ vào đầu năm học”.

Sinh hoạt tổ chuyên môn là một hoạt động không thể thiếu ở các nhà trường phổ thông. Cán bộ quản lý hướng dẫn nội dung sinh hoạt tổ chuyên môn có các môn KHXH. Tổ chuyên môn phải xây dựng kế hoạch hoạt động của tổ, hướng dẫn xây dựng và quản lý kế hoạch cá nhân của tổ viên theo kế hoạch dạy học các môn KHXH, phân phối chương trình và các quy định của Bộ GD&ĐT; Hiệu trưởng duyệt kế hoạch hoạt động của tổ. Tổ chuyên môn có nhiệm vụ bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho GV dưới các hình thức: tổ

chức các chuyên đề bàn về cách soạn giáo án; về phương pháp dạy học các môn KHXH, từng chương, từng bài; cách sử dụng công nghệ thông tin; đồ dùng dạy học sẵn có; cách làm đồ dùng dạy học; cách đánh giá học sinh; dự giờ, rút kinh nghiệm, hội thảo các vấn đề bức xúc trong hoạt động dạy học các môn KHXH. Các buổi sinh hoạt chuyên môn được tổ chức tốt sẽ trở thành những khoảng thời gian và không gian chủ yếu rèn luyện và bồi dưỡng đội ngũ GV các môn KHXH có tay nghề vững vàng, đáp ứng kịp thời sự đổi mới trong phương pháp dạy học của bộ môn.

1.3.4.6. Quản lý công tác bồi dưỡng giáo viên

Chất lượng dạy học, chất lượng giáo dục được quyết định bởi nhân tố con người, những con người tham gia vào quá trình giáo dục, đó là GV, HS và các cán bộ QLGD, trong đó GV là lực lượng tác động trực tiếp đến HS. Vì thế, Hiệu trưởng phải coi trọng công tác bồi dưỡng GV. Đây là yêu cầu thường xuyên, liên tục và là giải pháp then chốt trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy, góp phần tích cực thực hiện sự nghiệp đổi mới giáo dục phổ thông.

Quản lý công tác bồi dưỡng GV là quá trình chỉ đạo, tổ chức, động viên, tạo điều kiện về tinh thần lẫn vật chất để giáo viên được nghiên cứu, học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác giảng dạy, đồng thời kiểm tra việc GV thực hiện các yêu cầu của cấp trên về chuẩn hoá và nâng chuẩn trình độ chuyên môn, xây dựng đội ngũ ngày càng vững mạnh về chuyên môn nghiệp vụ.

Hiệu trưởng phải chủ động trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch; chỉ đạo công tác bồi dưỡng GV qua việc tổ chức thường xuyên các chuyên đề về dạy học, phân tích sư phạm sau các tiết dạy, bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ; tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên tự bồi dưỡng, học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu dạy học trong giai đoạn mới.

1.3.4.7. Quản lý hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh

Kiểm tra, đánh giá là một bộ phận hợp thành, một khâu không thể thiếu được trong quá trình giáo dục ở tất cả các môn học. Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS được tồn tại đồng thời với quá trình dạy học, đó là quá trình thu

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 03/07/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí