Những Tiền Đề Lịch Sử, Văn Hóa, Xã Hội Tạo Nên Hiện Tượng Hồ Xuân Hương

Việt Nam chúng ta, từ khi có văn học viết là đã có ngay thơ tứ tuyệt. Ban đầu, chúng ta phải sáng tác bằng chữ Hán cho nên thơ tứ tuyệt luật Đường đã xuất hiện ngay từ thế kỷ X. Khái niệm thơ tứ tuyệt vì vậy cũng đã được nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam quan tâm.

Theo nhà nghiên cứu Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức trong cuốn Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại, nghĩa chữ “tứ tuyệt” ở đây gồm 4 câu cắt ra từ một bài bát cú. Có bốn cách cắt:

+ Cắt bốn câu trên, thành ra bài thơ ba vần, hai câu trên không đối nhau, hai câu dưới đối nhau. Ví dụ:

XUÂN

Khí trời ấm áp đượm hơi dương Thấp thoáng lâu dài vẻ ác vàng Rèm liễu líu lo oanh hót hót gió,

Giậu hoa phấp phới bướm chân hương.

(Khuyết danh – Phỏng dịch thơ chữ Hán của bà Ngô Chi Lan)

+ Cắt bốn câu giữa, thành ra bài thơ hai vần, bốn câu đều đối nhau. Ví dụ:

KHI TẦU CẬP BẾN

Gió đưa dương liễu cành cành nguyệt Cụm tỏa ngô đồng lá lá sương Thuyền mọn năm canh người bãi Hán Dịch dài một tiếng khách Tầm dương.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.

(Phan Thanh Giản)

+ Cắt hai câu dưới, thành ra bài thơ hai vần, hai câu đầu đối nhau, hai câu dưới không đối. Ví dụ:

Thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương - 3

ĐỜI NGƯỜI

Người hết danh không hết Đời còn việc vẫn còn

Tội gì lo tính quẫn,

Lập những cuộc con con.

(Khuyết danh)

+ Cắt hai câu đầu, hai câu cuối, thành ra bài thơ ba vần, cả bốn câu không đối. Ví dụ:

TRỜI NÓI

Cao cao muôn trượng ấy là tao Dẫu pháo thăng thiên chả tới nào Nhắn nhủ dưới trần cho chúng biết: Tháng ba, tháng tám tớ mưa rào.

(Nguyễn Khuyến)

Giáo sư Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu khẳng định: “Tứ nghĩa là bốn, tuyệt nghĩa là dứt, ngắt. Lối này gọi thế vì thơ tứ tuyệt là ngắt lấy bốn câu trong bài bát cú mà thành”. Rồi ông dẫn ra năm cách ngắt khác nhau:

+ Ngắt bốn câu trên:

Thấy dân rét mướt nghĩ mà thương Vậy phải lên ngôi gỡ mối giường Tay ngọc lăn đưa thoi nhật nguyệt Gót vàng dậm đạp máy âm dương.

(Lê Thánh Tông)

+ Ngắt bốn câu dưới:

Vắt vẻo sườn non Trao Lơ thơ mấy ngọn chùa Hỏi ai là chủ đó

Có bản tớ xin mua.


+ Ngắt hai câu đầu, hai câu cuối:


(Vô danh)

Những lúc say sưa cũng muốn chừa Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa Hay ưa nên nỗi không chừa được

Chừa được nhưng mà cũng chẳng chừa.

(Nguyễn Khuyến)


+Ngắt bốn câu giữa:

Lởm chởm gừng vài khóm Lơ thơ tỏi mấy hàng

Vẻ chi là cảnh mọn

Mà cũng đến tang thương.


+ Ngắt câu 1+ 2 và 5 + 6:

Bác mẹ sinh ra vốn áo sồi


(Nguyễn Gia Thiều)

Chốn nghiêm thăm thẳm một mình ngồi Tép miệng năm ba con kiến gió

Nghiến răng chuyển động bốn phương trời.

(Lê Thánh Tông)

Tác giả Trần Trọng Kim và Trần Đình Sử cũng theo quan điểm này.

Giáo sư Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức trong Thơ ca Việt Nam – hình thức và thể loại cho rằng: … “Như vậy, thơ Đường luật hoặc cũng gọi một cách khái quát, thơ cách luật, là thể thơ được đặt ra từ đời Đường…có ba loại: ngũ ngôn, lục ngôn và thất ngôn. Thơ cách luật chia làm ba thể: thể tiểu luật gọi là tuyệt cú (Việt Nam gọi là tứ tuyệt),…thể luật thi gọi là bát cú…” [31, tr.226]. Hai ông cũng đã giải thích thêm về thơ tứ tuyệt như sau:

+ Tuyệt: có nghĩa là cắt ra từ bài bát cú.

+ Tuyệt: cũng là cắt, là đứt, nhưng là đứt câu, dừng bút để trọn ý cho một bài, sau khi viết câu thứ tư. Bởi vì một câu chưa thành thơ; hai câu mới thành một vế đối liên, ít nhất bốn câu mới có vần, khi đó mới thành một bài thơ.

Theo nhà biên dịch thơ Đường, Trần Trọng Kim: “Thơ tuyệt cú là lối thơ làm bốn câu hai ba vần…” [18, tr.20].

Theo Đào Thái Sơn trong Khái luật về thơ tứ tuyệt thì cách hiểu của các vị trên đây về thơ tứ tuyệt coi như là cơ bản được nhiều người chấp nhận nhất. Bên

cạnh đó thì một số người lại giải thích bằng một cách hiểu khác. Theo Bùi Kỷ viết trong Quốc văn cụ thể: “Tuyệt là tuyệt diệu, mỗi câu chiếm một vị trí đặc biệt. Chỉ trong bốn câu mà thiền thâm, ẩn hiển, chinh kỳ, khởi phục đủ cả cho nên gọi là tuyệt” [20, tr.20]. Còn nhà nghiên cứu Lạc Nam Phan Văn Nhiễm trong Tìm hiểu các thể thơ: “Thơ bốn câu gọi là tứ tuyệt, người Trung Quốc gọi là tuyệt cú, tức là bài thơ hay tuyệt vời, vì chỉ có bốn câu 20 từ hoặc 28 từ mà nói lên được đầy đủ ý tứ của một đề tài theo đúng luật lệ của thơ Đường”[29, tr.35]. Có thể nói các nhà nghiên cứu ai cũng có lý do cho cách phân tích biện giải của mình. Điều đó càng chứng tỏ sự phong phú, phức tạp và rất kỳ diệu của thơ tứ tuyệt.

Nếu theo cách hiểu thứ nhất thì ta có một số cách cắt bốn câu của một bài bát cú thành một bài tứ tuyệt (theo niêm luật của một bài bát cú).

Nếu hiểu thơ tứ tuyệt theo cách hiểu thứ hai và mở rộng thêm thì một bài thơ không dứt khoát phải làm theo cổ tuyệt hay luật tuyệt mới gọi là Nôm tứ tuyệt, mà chỉ cần một bài thơ Nôm ngắn có bốn câu làm theo thể thơ gì cũng được, miễn hay là tứ tuyệt. Cách hiểu này không phải không có lý mà còn có sự thông thoáng, mở rộng. Một bài thơ tứ tuyệt hay phải lựa chọn được những khoảnh khắc dồn nén của đời sống tinh thần, những hiện thực của tâm trạng, những phút thăng hoa của tâm linh…Phải dồn nén biểu cảm để tính khái quát của triết lý đạt tới cao độ.

Còn theo như PGS. TS Lê Lưu Oanh và Ths Định Thị Nguyệt trong Thơ tứ tuyệt trong truyền thống văn hóa phương Đông thì thơ tứ tuyệt là một thể loại kết tinh được khá nhiều nét độc đáo của những giá trị tinh thần văn hóa phương Đông. Tứ tuyệt là một chỉnh thể vi mô toàn vẹn, số 4 trong quan niệm của nhân loại là một con số hoàn thiện nhất. Quy luật đối lập âm dương, đảm bảo cân bằng âm dương qua việc phối hợp các thanh bằng – trắc, các nhịp chẵn lẻ tạo thành một cấu trúc có quy luật với những quan hệ nội tại chặt chẽ, làm một bài tứ tuyệt dù rất nhỏ nhưng đảm bảo là một cấu trúc hình thức hoàn chỉnh cân xứng, nhịp nhàng, chặt chẽ, khó phá vỡ [36, tr.2]. Chính vì con số 4 chứa đựng được cả vũ trụ nên bài thơ tứ tuyệt được coi là một tổng thể toàn vẹn mang tính

vi mô. Nhưng nội dung và cả cấu trúc hình thức của tứ tuyệt không hạn chế ở cấp độ vi mô mà vươn tới hình ảnh của thế giới vĩ mô. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa cái nhỏ và cái lớn, thể hiện cảm quan triết lí phương Đông về vũ trụ. Với cấu trúc rất bé nhỏ, thơ Nôm tứ tuyệt là loại hình nghệ thuật biểu hiện khá điển hình cho mối quan hệ vi mô – vĩ mô ấy. Tuy nhỏ, song nó không hề bị hạn chế sức mạnh và sức bao quát, trong một hình thức có giới hạn vẫn chứa đựng được nội dung khái quát (vô hạn). Cũng với cách hiểu này, kết cấu của tứ tuyệt là kết cấu mở. Còn về ngôn ngữ, do bài thơ vắng các hư từ, giới từ, chủ từ, kết cấu danh từ là kết cấu chủ yếu, thiếu tiêu chí thời gian xác định, cho nên cái đa nghĩa trong thơ cận thể (bát cú và tứ tuyệt) không phải là ngẫu nhiên mà thành thường lệ, làm cho hình tượng thơ "vừa trừu tượng vừa mơ hồ, vừa mông lung tràn trề".

Nói tóm lại, thơ tứ tuyệt không xa lạ với người yêu thơ. Về quan niệm thơ tứ tuyệt là gì còn tùy vào quan điểm phân tích của mỗi người khác nhau. Làm thơ tứ tuyệt không khó, nhưng để có một bài tứ tuyệt hay là cả một công trình nghệ thuật. Làm thơ đã vậy, cảm nhận được nó cũng không phải là chuyện dễ dàng gì. Thơ tứ tuyệt trước hết là một bài thơ bốn câu, không nhất thiết là ngũ ngôn hay thất ngôn, không nhất thiết phải có niêm luật chặt chẽ. Thơ tứ tuyệt phải vận dụng được tối đa các thủ pháp nghệ thuật, phát huy thế mạnh của âm vần, đặc biệt là cách tổ chức hình ảnh để tạo ra một cấu trúc đa chiều vừa đủ sức phản ánh hiện thực, vừa mang tính khái quát cao, vừa ưu tiên cho sự tự thể hiện của sự vật của các quan hệ vừa có chỗ cho tâm trạng cá nhân, cá tính của đối tượng cũng như của tác giả.

Thơ tứ tuyệt có những điểm mạnh hơn thơ hai câu, ba câu, tám câu hoặc trường thiên. Tuy nhiên thơ tứ tuyệt có hạn chế về mặt phản ánh so với các thể thơ dài nhưng lại mạnh hơn nhiều lần về sự ghi nhớ, khả năng lưu truyền. Thơ không được nhớ, không được thuộc thì điều nhà thơ muốn gửi tới người khác, sẽ không có hiệu quả.

1.1.2. Thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng

Yếu tố trào phúng đã có mặt ngay từ những thể loại văn học dân gian đầu tiên như sử thi, thần thoại. Những tình tiết như Đam Săn chặt cây thần, lên hỏi tội trời,… đều ẩn giấu ý nghĩa trào phúng độc đáo. Tuy nhiên, ở các thể loại này, tính chất trào phúng còn mờ nhạt và ít ỏi. Dần dần, tính chất trào phúng đã đậm hơn, phong phú hơn ở các chuyện cổ tích thế sự, ở thể loại truyện ngụ ngôn, ca dao, tục ngữ…

Cái cười là một hành động nhận thức, là sản phẩm của tư duy suy lý. Tiếng cười trào phúng gắn liền với ý nghĩa phê phán xã hội, là phản ứng tức thời của con người khi phát hiện ra mâu thuẫn và những điều trái tự nhiện dưới góc độ tư duy suy lý. Trào phúng là từ Hán - Việt, tách riêng từng chữ thì “trào” là cười cợt, chế giễu; “phúng” là lời bóng gió để châm biếm, đả kích. Vì vậy, thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng hiểu một cách giản dị là loại thơ Nôm 4 câu dùng ngôn từ ví von, bóng gió để châm biếm, đả kích những thói hư tật xấu trái với lương tri, đạo đức xã hội.

Thơ trào phúng nói chung và thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng nói riêng được hiểu theo nghĩa tương đối rộng nên có thể chia thành nhiều loại, trong đó có 3 loại chính: loại chế giễu, cười nhạo; loại mỉa mai châm biếm; loại phê phán, đả kích. Ngoài ba loại kể trên còn có loại thơ “vui là chính”, không châm biếm, chế giễu ai. Nếu có châm biếm thì cũng tự châm biếm mình. Ta thường gặp loại thơ này trong các bài tự trào, tự cười mình là chính. Loại này cũng được xếp vào thơ trào phúng. Việc phân chia thơ trào phúng làm nhiều loại cũng chỉ là cách chia tương đối không thể cố định, rạch ròi. Bởi vì trong khôi hài, cười cợt có châm biếm, chế giễu; trong châm biếm, chế giễu có phê phán, đả kích; trong phê phán, đả kích có khôi hài, cười cợt.

Đặc trưng cơ bản của thơ trào phúng nói chung và thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng nói riêng là yếu tố gây cười, yếu tố hài hước. Nếu không có hai yếu tố này thì không thể gọi là thơ trào phúng. Tuy nhiên, cười cũng có nhiều kiểu, nhiều cách. Có khi cười thành tiếng, có khi cười thầm, có khi cười mỉm, có khi chỉ gật đầu. Mặt khác, cũng là cười nhưng mỗi tác giả có một phong cách gây cười riêng.

Do tính chất chung của thơ trào phúng là hài hước, gây cười vì vậy người làm thơ trào phúng thường vận dụng các yếu tố ngoa ngôn phóng đại và các biện pháp ngụ ngôn, ẩn dụ, ước lệ để xây dựng hình tượng, thể hiện nội dung. Thơ trào phúng không kể lể lan man, càng ngắn gọn, cô đọng càng tốt. Thơ trào phúng thường có những câu đột phá độc đáo. Nhất là ở những câu kết cần làm bật lên những ý tuởng mới lạ khiến người đọc, người nghe cảm thụ một cách thích thú bất ngờ.

Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa trào phúng là “Một loại đặc biệt của sáng tác văn học đồng thời là một nguyên tắc phản ánh nghệ thuật, trong đó các yếu tố của tiếng cười mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa trương, hài hước… được sử dụng để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo, phản kháng những cái tiêu cực, xấu xa, lỗi thời, độc ác trong xã hội”.

“Trong lĩnh vực văn học trào phúng gắn liền với phạm trù mỹ học, cái hài với cái cung bậc hài hước,châm biếm đó là khái niệm bao trùm lĩnh vực văn học tiếng cười”[33, tr.246]. Những cung bậc, những tiếng cười từ hài hước đến mỉa mai châm biếm, đả kích, bằng thủ pháp gây cười như phóng đại khoa trương … được vận dụng một cách phổ biến trong tác phẩm trào phúng.

Trào phúng là một khái niệm rất phức tạp về mặt lý thuyết, khái niệm này rất khó định nghĩa, đã có hàng trăm định nghĩa về cái hài như những định nghĩa của Aritstot, Cantơlipxơ… tuy nhiên mỗi định nghĩa có hạn chế bởi tính phiến diện của nó. Tóm lại, hiểu một cách đơn giản nhất trào phúng là nghệ thuật gây ra tiếng cười mang ý nghĩa phản ánh xã hội để gây ra tiếng cười trào phúng, tiếng cười hài hước đó là tiếng cười mỉa mai, châm biếm sâu cay. Lấy tiếng cười làm phương tiện để biểu hiện một đối tượng nhất định.

Thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng trong bước đường đầu tiên của nó chủ yếu hiện diện ở hai cung bậc trào phúng là hài hước và châm biếm. Tất nhiên sự biểu hiện các cung bậc này không phải bao giờ cũng rõ ràng, xác định như vậy. Có những bài thơ xuất hiện cả hai cung bậc, hoặc có sự đan xen pha trộn giữa hài hước với mỉa mai, châm biếm hoặc vừa châm biếm vừa vui đùa...

Về nội dung trào phúng, sự phong phú, đa dạng và phát triển trên cơ sở sự biến đổi của đối tượng thẩm mỹ, đó là sự phát triển của bối cảnh lịch sử xã hội và cùng với nó, sự xuất hiện của các loại đối tượng trào phúng. Từ vua đến quan, từ những kẻ xấu xa đến những thói hư tật xấu trong xã hội, từ hình ảnh thiên nhiên đến những sự vật bình thường,…tất cả tạo nên một thế giới trào phúng hết sức phong phú, bao quát được nhiều vấn đề của hiện thực xã hội đương thời.

Về nghệ thuật trào phúng, đó là những biện pháp gây cười và ngôn ngữ nghệ thuật. Thơ Nôm tứ tuyệt là thể thơ sáng tác bằng ngôn ngữ dân tộc, có lợi thế trong việc phản ánh hiện thực đời sống theo cảm quan của nhân dân, làm bật ngay tiếng cười trực tiếp, tác động thẳng tới người đọc, có ý nghĩa trào phúng sắc sảo, tức thời.

Thực tế văn học dân tộc cho thấy có hẳn một truyền thống trào phúng rất đáng chú ý kéo dài suốt những thế kỷ đầu tiên khi văn học viết xuất hiện đến tận hôm nay và ngày càng phát triển mạnh mẽ, mở ra những giá trị tư tưởng và nghệ thuật mới mẻ, tạo nên một bộ phận “văn học cười” đặc sắc trong văn chương dân tộc.

Tóm lại, thơ tứ tuyệt nói chung và thơ Nôm tứ tuyệt nói riêng là một thể thơ đặc sắc, được các nhà thơ hết sức ưa chuộng và được sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu. Tuy vậy, tứ tuyệt là gì, xuất hiện từ bao giờ, đặc trưng của nó ra sao, tứ tuyệt Đường có cắt ra từ bát cú hay không… là những vấn đề chưa phải đã đạt tới sự thống nhất cao.

1.2. Những tiền đề lịch sử, văn hóa, xã hội tạo nên hiện tượng Hồ Xuân Hương

Theo khảo sát cuả TS Ngô Gia Võ trong Hồ Xuân Hương với dòng thơ Nôm Đường luật trào phúng thì thơ Nôm Đường luật trào phúng Việt Nam đã có một quá trình phát triển từ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, đến Hồng Đức quốc âm thi tập của các tác gia thời Hồng Đức và Lê Thánh Tông, đến Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm rồi mới đến thơ Hồ Xuân Hương. Rõ ràng, hiện tượng “kỹ nữ Hồ Xuân Hương” với những thi phẩm trào phúng đặc sắc và đầy ấn tượng, với nghệ thuật sáng tạo thơ độc đáo được người đời phong tặng danh hiệu “Bà chúa thơ Nôm” không phải là hiện tượng bất ngờ đột biến và dường như đã

Xem tất cả 100 trang.

Ngày đăng: 04/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí