Giáo Dục Trung Học Phổ Thông Trong Hệ Thống Giáo Dục Quốc Dân

dạy học-giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất.” [54]

Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục tới mục tiêu đã định, trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng đắn những quy luật khách quan của hệ thống. Quản lý giáo dục vận dụng bốn chức năng quản lý: Lập kế hoạch; tổ chức triển khai kế hoạch; chỉ đạo thực hiện kế hoạch; kiểm tra, đánh giá để thực hiện nhiệm vụ công tác của mình. Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quan là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển của xã hội hiện nay. [47]

Quản lý giáo dục là nhân tố cơ bản thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hệ thống giáo dục nhằm làm cho hệ thống luôn ổn định, phát triển và đạt mục tiêu đã định. [56]

Khái niệm “quản lý giáo dục” là một khái niệm có nội hàm rộng hẹp khác nhau, tùy theo cách ta tiếp cận khái niệm “giáo dục" từ góc độ nào. Nếu hiểu theo nghĩa rộng nhất, quản lý giáo dục là quản lý mọi hoạt động trong xã hội, tác động một cách có mục đích và có kế hoạch vào toàn bộ các lực lượng giáo dục, nhằm tổ chức và phối hợp hoạt động của chúng, sử dụng một cách đúng đắn các nguồn lực và phương tiện, thực hiện có hiệu quả chỉ tiêu phát triển về số lượng và chất lượng của sự nghiệp giáo dục theo phương hướng của mục tiêu giáo dục [3]. Nếu chỉ đề cập tới hoạt động quản lý trong ngành giáo dục, quản lý giáo dục được hiểu là quản lý hệ thống giáo dục từ Trung ương đến địa phương, bao gồm tất cả các ngành học, cấp học, trường học theo mục đích đặt ra cho các thời kỳ.

Nếu thu hẹp khái niệm giáo dục trong phạm vi các hoạt động diễn ra trong trường học và cơ sở giáo dục, quản lý giáo dục được hiểu là quản lý nhà trường. “Quản lý giáo dục thực chất là tác động một cách khoa học đến nhà trường, nhằm tổ chức tối ưu các quá trình dạy học, giáo dục thể chất, theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, tiến tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái chất lượng mới.” [3]

Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có ý thức, hợp quy luật của chủ thể quản lý ở các cấp quản lý khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống nhằm đảm

bảo sự vận hành ổn định của các trường học và các cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục nhằm đạt được mục tiêu giáo dục của nhà nước. [45] [46]

Hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên, bởi vậy, sứ mệnh phát triển giáo dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà cả cho mọi người, mọi lứa tuổi, đặc biệt đối với giáo viên.

1.2.2. Bồi dưỡng và bồi dưỡng giáo viên

1.2.2.1. Bồi dưỡng, hoạt động bồi dưỡng

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 242 trang tài liệu này.

Bồi dưỡng được hiểu là quá trình bổ sung kiến thức, kỹ năng nhằm nâng cao năng lực trong lĩnh vực hoạt động chuyên môn nào đó mà người ta đã có một trình độ chuyên môn nhất định. Bồi dưỡng được coi là quá trình cập nhật hoá kiến thức còn thiếu hoặc đã lạc hậu, đào tạo thêm hoặc củng cố những kĩ năng về chuyên môn hay nghiệp vụ sư phạm theo nhiều hình thức khác nhau.

Cũng có quan niệm cho rằng bồi dưỡng là quá trình đào tạo tiếp nối, thể hiện quá trình đào tạo liên tục trước và trong khi làm việc. Vì vậy, cũng như đào tạo, có nhiều cách tiếp cận quá trình bồi dưỡng và mỗi cách tiếp cận, có những mô hình bồi dưỡng khác nhau và có những quan niệm về bồi dưỡng khác nhau.

Quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên tiếng Anh các trường trung học phổ thông theo tiếp cận phát triển năng lực - 6

Bồi dưỡng [37]:

Hiểu theo nghĩa rộng, bồi dưỡng là quá trình giáo dục, đào tạo nhằm hình thành nhân cách và những phẩm chất riêng biệt của nhân cách theo định hướng mục đích đã chọn.

Hiểu theo nghĩa hẹp, bồi dưỡng có thể coi là quá trình cập nhật kiến thức, kĩ năng còn thiếu hoặc đã lạc hậu, nhằm mục đích nâng cao và hoàn thiện năng lực hoạt động trong các lĩnh vực cụ thể.

Tự bồi dưỡng của giáo viên là quá trình tự giác, tích cực, độc lập chiếm lĩnh nhằm chuẩn hoá, cập nhật và nâng cao những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo chuyên môn nghiệp vụ sư phạm đã có để đạt hiệu quả dạy học - giáo dục cao hơn, bằng sức lực, khả năng, động cơ riêng của giáo viên. Nhân tố quyết định của tự bồi dưỡng là sự tự thân vận động của chủ thể, đồng thời cũng chính là khách thể chịu sự tác động của hành động, hoạt động do chính chủ thể tiến hành bằng nội lực nhằm tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển.

Nếu như đào tạo là giai đoạn đầu hình thành năng lực và phẩm chất cần thiết

để hành nghề, bồi dưỡng ở giai đoạn nối tiếp tất yếu đối với bất kì một hoạt động nghề nghiệp nào. Đào tạo - bồi dưỡng là một quá trình không ngừng nghỉ, để nâng cao chất lượng chuyên môn trong đó tự bồi dưỡng là một sự tự thân vận động nhằm phát huy nội lực, tạo động lực cho sự phát triển. Do vậy, có thể xác định: đào tạo, bồi dưỡng là quá trình giúp người học không chỉ “Học để biết” mà còn “học để làm”, vận dụng cái biết đó trong “học để cùng chung sống” và cao hơn “học để khẳng định mình”. Còn tự đào tạo, tự bồi dưỡng là nhân tố luôn hiện hữu trong suốt quá trình đào tạo bồi dưỡng, là tự học để đạt hiệu quả nghề nghiệp cao hơn. Đối với với giáo viên, bồi dưỡng, tự bồi dưỡng là quá trình liên tục, tạo nên chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm.

Để phân loại bồi dưỡng, người ta có thể dựa vào hình thức bồi dưỡng, chẳng hạn: bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng định kỳ, bồi dưỡng tại nơi làm việc,... Người ta cũng có thể phân loại theo cách dựa vào nội dung bồi dưỡng như: bồi dưỡng chuyên đề, bồi dưỡng toàn diện, bồi dưỡng chuyên môn, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm,... Hoặc có thể phân theo mục đích của việc bồi dưỡng, chẳng hạn bồi dưỡng chuẩn hoá, bồi dưỡng nâng cao, bồi dưỡng cập nhật kiến thức,... Thuật ngữ “tự bồi dưỡng” chỉ cách học của cá nhân. Trong các loại bồi dưỡng nêu trên đều có yếu tố tự bồi dưỡng trong nó. Tự bồi dưỡng thể hiện năng lực học của mỗi người. Năng lực tự bồi dưỡng thường được dùng để phân biệt mức độ khả năng và kết quả tự bồi dưỡng của người này với người khác

Tự bồi dưỡng thể hiện trước hết là phải xác định rõ mục đích, mục tiêu cần đạt được. Người tự bồi dưỡng, đạt được mục đích, mục tiêu đó bằng cách tự đọc tài liệu, sách báo các loại, nghe radio, xem truyền hình, khai thác mạng Internet, nghe nói chuyện, báo cáo, tham gia hội thảo, tham quan bảo tàng, triển lãm, xem phim, biểu diễn nghệ thuật, giao tiếp với cán bộ khoa học, với các chuyên gia và những người hoạt động thực tiễn trong các lĩnh vực khác nhau. Người tự bồi dưỡng phải biết cách lựa chọn tài liệu, tìm ra những điểm chính, điểm quan trọng trong các tài liệu đã đọc, đã nghe, phải biết cách ghi chép những điều cần thiết, biết viết tóm tắt và làm đề cương, biết cách tra cứu từ điển và sách tham khảo, biết cách làm việc trong thư viện... Có thể phân biệt các hình thức tự bồi dưỡng sau đây:

Hoạt động tự bồi dưỡng của chủ thể diễn ra dưới sự điều khiển trực tiếp của

người bồi dưỡng với sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật. Trong hình thức này hoạt động tự bồi dưỡng của chủ thể chịu sự định hướng và điều khiển của người bồi dưỡng, nhằm đạt được mục tiêu bồi dưỡng được xác định từ trước. Lúc này hoạt động tự bồi dưỡng của chủ thể có đủ các yếu tố: Người bồi dưỡng, người được bồi dưỡng, tài liệu...trong môi trường là lớp học truyền thống. Hoạt động tự bồi dưỡng của chủ thể diễn ra bên ngoài lớp học, bồi dưỡng nhằm đáp ứng nhu cầu cập nhật, bổ sung kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp cho chủ thể theo yêu cầu của nội dung chương trình và của người bồi dưỡng. Trong trường hợp này chủ thể phải tự tổ chức các hoạt động học tập bồi dưỡng của mình như: Nghiên cứu các tài liệu, hệ thống hoá, làm bài tập, rèn luyện các kỹ năng, kỹ xảo... thực hiện các yêu cầu của người bồi dưỡng, để đáp ứng yêu cầu lĩnh hội tri thức theo chương trình nội dung bồi dưỡng đã được xác định từ đầu.

Hoạt động tự bồi dưỡng, nhằm đáp ứng nhu cầu tự thân, diễn ra thường xuyên trong quá trình hành nghề của chủ thể, về nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, khắc phục những hạn chế, khiếm khuyết, lạc hậu trước sự biến động không ngừng của đời sống xã hội, nhất là về tri thức. Trong trường hợp này chủ thể hoàn toàn chủ động lựa chọn kiến thức, kỹ năng cần bổ sung, tự xây dựng kế hoạch chương trình nội dung bồi dưỡng, tự lựa chọn tài liệu cần đọc. Chủ thể tự đọc tài liệu để hiểu và tiếp thu các tri thức trình bày trong tài liệu, tự rèn luyện các kỹ năng theo yêu cầu của tài liệu và tự sắp xếp các tri thức, các kỹ năng đó vào hệ thống tri thức, kỹ năng mà mình đang có. Đây là mức độ tự bồi dưỡng rất cao, vì ở đây chủ thể tự mình tổ chức toàn bộ các hoạt động của quá trình tự bồi dưỡng của mình.

Tự bồi dưỡng là một hoạt động đòi hỏi phải có tính độc lập, tự chủ, tự giác và kiên trì cao mới đạt kết quả.“Người học là người thợ chính trong quá trình đào tạo” [113]. Trong quá trình tự bồi dưỡng, tính độc lập, chủ động có vai trò quan trọng. Chủ thể tiến hành các hoạt động tự bồi dưỡng với ý thức tự giác, chủ động, có mục tiêu và phương pháp cá nhân gắn với nhu cầu giá trị và khả năng cá nhân.

Tự bồi dưỡng mang tính cá nhân cao, dựa trên chính tiềm năng và ý thức trách nhiệm của chủ thể. Mặt khác, hoạt động tự bồi dưỡng có khả năng lựa chọn cao, cả về nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức bồi dưỡng.

Tự bồi dưỡng gắn liền với hoạt động tự đánh giá. Tự đánh giá là một hoạt

động không thể tách rời của quá trình tự bồi dưỡng, nó bảo đảm cho quá trình này tiến triển đúng hướng và vững chắc theo mục tiêu đã định.

Tự bồi dưỡng gắn liền với quá trình tự giáo dục. Đó là quá trình tự mình tiến hành học tập, rèn luyện những phẩm chất đạo đức tốt đẹp và khắc phục những nét tính cách, thói quen không tốt một cách tự nguyện, tự giác và có hệ thống. Tự bồi dưỡng gắn liền với hoạt động tự quản; tức là tự tổ chức quản lý mọi hoạt động của bản thân không có sự quản lý trực tiếp của người khác hay tập thể, tổ chức.

1.2.2.2. Bồi dưỡng giáo viên

Hiểu theo cách tiếp cận hệ thống, quá trình bồi dưỡng gồm 3 thành tố cơ bản: Mục tiêu, nội dung, phương thức tương tác với nhau tạo thành một chỉnh thể, vận hành trong môi trựờng giáo dục của nhà trường và môi trường kinh tế - xã hội của cộng đồng [31]. Phương thức phải phù hợp với mục tiêu, nội dung bồi dưỡng và có ảnh hưởng tích cực đến việc thực hiện mục tiêu và nội dung bồi dưỡng. Ngược lại, mục tiêu bồi dưỡng quy định nội dung và nội dung đòi hỏi một phương thức thực hiện phù hợp.

Các loại hình bồi dưỡng giáo viên bao gồm: Hoạt động bồi dưỡng chuẩn hóa và nâng chuẩn; Hoạt động bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ; Hoạt động tự bồi dưỡng của cá nhân.Trong ba loại hình đó thì tự bồi dưỡng có vai trò quan trọng, quyết định chất lượng của hai loại hình kia và nó đem lại hiệu quả mong muốn.

Hoạt động bồi dưỡng có vai trò, vị trí rất quan trọng trong công tác xây dựng đội ngũ giáo viên:

Hoạt động bồi dưỡng đóng vai trò chủ yếu trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Thông qua hoạt động bồi dưỡng, thường xuyên, liên tục đội ngũ giáo viên được cập nhật, bổ sung kiến thức, kỹ năng mới, nhờ đó mà nâng cao được phẩm chất và các năng lực sư phạm để thích ứng với những thay đổi, biến động của chức năng giáo dục - dạy học theo yêu cầu của xã hội.

Thông qua bồi dưỡng, giáo viên được nâng cao nhận thức về trách nhiệm, thái độ nghề nghiệp, cập nhật, bổ sung được những kiến thức mới, hiện đại, những đổi mới về mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học. Nhờ đó nâng cao được chất lượng, hiệu quả giáo dục - dạy học và góp phần đảm bảo kỷ cương nề nếp trong các hoạt động của nhà trường.

Xuất phát từ yêu cầu tiêu chuẩn hoá giáo viên, tự bản thân người giáo viên có nhu cầu được chuẩn hoá theo Luật Giáo dục, Luật Công chức và tiêu chuẩn chức danh nghiệp vụ... nên giáo viên phải được học tập và bồi dưỡng. Mặt khác, người giáo viên trong quá trình dạy học, những kiến thức, kỹ năng được trang bị trong trường sư phạm sẽ trở nên lạc hậu, thiếu thốn buộc họ phải học tập, bồi dưỡng bổ sung, mới đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ dạy học đặt ra ngày càng cao. Hoạt động bồi dưỡng có vai trò đáp ứng yêu cầu quyền lợi và nghĩa vụ đó của người giáo viên.

Đối với giáo viên, hoạt động bồi dưỡng nhằm tạo điều kiện cho giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục có cơ hội củng cố và mở rộng một cách có hệ thống những tri thức, kĩ năng chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm hoặc quản lý giáo dục sẵn có để lao động nghề nghiệp một cách có hiệu quả hơn; mặt khác cũng qua bồi dưỡng người học biết chọn lọc, tiếp thu phát huy các mặt mạnh, khắc phục bổ sung những mặt còn hạn chế, bồi dưỡng kịp thời, động viên họ làm việc tự giác với tinh thần trách nhiệm đạt hiệu suất cao.

1.2.3. Quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên

Theo quan điểm phổ biến hiện nay, quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên là một bộ phận của quản lý giáo dục, là hệ thống gồm bốn chức năng:

Lập kế hoạch bồi dưỡng giáo viên: Kế hoạch hóa là là xác định mục tiêu đối với hoạt động bồi dưỡng, xác định và đảm bảo các nguồn lực phục vụ hoạt động bồi dưỡng giáo viên, lựa chọn các phương án, biện pháp, thời gian, thời điểm tốt nhất phù hợp với điều kiện thực tế để tiến hành hoạt động bồi dưỡng đạt kết quả tốt nhất.

Tổ chức triển khai hoạt động bồi dưỡng: Tổ chức là chức năng được tiến hành sau khi lập kế hoạch nhằm chuyển hóa những mục đích, mục tiêu bồi dưỡng giáo viên được đưa ra trong kế hoạch thành hiện thực. Qua việc tổ chức triển khai mà tạo ra mối quan hệ giữa các đơn vị trường học, các bộ phận liên quan trong hoạt động bồi dưỡng giáo viên được liên kết thành một bộ máy thống nhất, chặt chẽ và nhà quản lý có thể điều phối các nguồn lực phục vụ cho công tác bồi dưỡng.

Quản lý việc thực hiện nhiệm vụ hoạt động bồi dưỡng giáo viên: Sau khi lập kế hoạch và cơ cấu bộ máy, khâu vận hành, điều khiển hệ thống là cốt lõi của công tác quản lý. Nội dung của chức năng này là liên kết các thành viên trong tổ chức, tập hợp động viên họ nỗ lực phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao để đạt được

mục tiêu của hoạt động bồi dưỡng giáo viên.

Kiểm tra là chức năng cơ bản và quan trọng của quản lý nói chung và trong quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên nói riêng. Kiểm tra nhằm thiết lập mối quan hệ ngược, nhận thông tin phản hồi của đối tượng quản lý và là khâu không thể thiếu trong quản lý. Thông qua kiểm tra, cán bộ quản lý đánh giá được thành tựu hoạt động của công tác bồi dưỡng, uốn nắn, điều chỉnh kịp thời nội dung phương pháp, hình thức bồi dưỡng cho phù hợp, đúng hướng.

Từ những cơ sở lý luận nêu trên có thể khái quát: Quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên là một trong những hoạt động của quản lý giáo dục, là quá trình tác động có ý thức của chủ thể quản lý giáo dục tới khách thể quản lý, tạo cơ hội cho giáo viên tham gia vào các hoạt động dạy học, giáo dục, bồi dưỡng trong và ngoài nhà trường nhằm cập nhật, bổ sung kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm nghề nghiệp nhằm nâng cao phẩm chất và năng lực sư phạm, đáp ứng yêu cầu thiết thực của sự nghiệp giáo dục và đào tạo.

1.3. Giáo dục trung học phổ thông trong hệ thống giáo dục quốc dân

1.3.1. Khái quát về trường trung học phổ thông

Giáo dục trung học phổ thông tiếp nhận học sinh đã hoàn thành chương trình giáo dục trung học cơ sở. Trong thời gian học trung học phổ thông, học sinh có thể chuyển sang học chương trình đào tạo trình độ trung cấp nếu có nguyện vọng và đáp ứng được yêu cầu của chương trình. Học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông có thể học lên đại học hoặc theo học các chương trình giáo dục nghề nghiệp [55].

Điều 28 trong luật giáo dục năm 2005 quy định: “Giáo dục trung học phổ thông phải củng cố, phát triển những nội dung đã học ở trung học cơ sở, hoàn thành nội dung giáo dục phổ thông, ngoài những nội dung chủ yếu nhằm đảm bảo chuẩn kiến thức phổ thông, cơ bản toàn diện và hướng nghiệp cho mọi học sinh còn có nội dung nâng cao ở một số môn học để phát triển năng lực, đáp ứng nguyện vọng của học sinh” [55].

Giáo dục trung học phổ thông nhằm góp phần thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức, có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, có tinh thần yêu nước. Trường trung học phổ thông là đơn vị văn hóa đại

diện trong cộng đồng.

1.3.2. Nội dung giáo dục phổ thông theo hướng đổi mới căn bản, toàn diện

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI [2] về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã chỉ rõ: Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Đổi mới để tạo ra chuyển

biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả giáo dục, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu

cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhu cầu học tập của nhân dân. Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, có tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học, các giải pháp đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp.

Muc

tiêu tổng quát đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo [2] với

những nội dung chính như:

Về mục tiêu đào tạo con người: Vừa đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; vừa đảm bảo phát huy tốt nhất tiềm năng riêng của mỗi cá nhân.

Về mục tiêu hệ thống: Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lí, gắn với xây dựng xã hội học tập; chuẩn hoá, hiện đại hoá, dân chủ hoá, xã hội hoá và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc.

Nôi

dung và phương pháp giáo duc

phổ thông theo quan điểm chỉ đạo đổi mới

căn bản, toàn diện giáo dục phổ thông là chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học.

Mục tiêu chương trình giáo dục phổ thông [11]:

Chương trình giáo dục phổ thông nhằm giúp học sinh phát triển khả năng vốn có của bản thân, hình thành tính cách và thói quen; phát triển hài hoà về thể chất và

Xem tất cả 242 trang.

Ngày đăng: 21/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí