Quản Lý Giáo Dục Và Chức Năng Quản Lý Giáo Dục

Chương 1‌‌‌

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN TÍCH HỢP VỚI GIÁO DỤC NẾP SỐNG

THANH LỊCH, VĂN MINH TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ


1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Nghiên cứu ngoài nước

Loài người đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, đánh dấu sự khác biệt giữa thời đại này với thời đại khác. Có rất nhiều yếu tố, nhưng một trong những yếu tố không thể thiếu được là sự khác nhau về hình thức quản lý (QL). Hình thức QL mới thay thế hình thức QL cũ đã lỗi thời, đáp ứng nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất xã hội không ngừng phát triển. Chính hình thức QL mới mở đường thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển hơn nữa, năng suất hiệu quả hơn.

Giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) là một lĩnh vực quan trọng trong đời sống xã hội. Đặc biệt thời đại ngày nay – thời đại của nền kinh tế tri thức vai trò của GD đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đòi hỏi phải có sự QL tương xứng, phù hợp với sự phát triển GD&ĐT mà xã hội yêu cầu. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về quản lý giáo dục (QLGD) trong và ngoài nước.

Song song với những công trình nghiên cứu có tính chất tổng quan về QLGD nói chung thì các công trình nghiên cứu về nhà trường, QL nhà trường có ý nghĩa thiết thực GD thế hệ trẻ trở thành những công dân có ích cho xã hội. Trong QL nhà trường thì QL quá trình DH là bộ phân cấu thành chủ yếu của toàn bộ hệ thống QL quá trình GD&ĐT. Các nhà nghiên cứu về QLGD Xô Viết trước đây cho rằng kết quả hoạt động của toàn bộ nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào những việc tổ chức đúng đắn và hợp lý công tác hoạt động của đội ngũ GV.

1.1.2. Nghiên cứu trong nước

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 161 trang tài liệu này.

Người Việt Nam xưa rất coi trọng GD. Cuối thế kỉ XX, QLGD thực sự được coi là một ngành khoa học. Bước sang thế kỉ XXI, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, GD và QLGD được đánh giá là yếu tố vô cùng quan trọng góp phần phát triển đất nước. Các công trình nghiên cứu về QL và QLGD ngày càng phong phú, đa dạng. Tiêu biểu là các công trình: Phạm Minh Hạc “Một số vấn đề về quản lý giáo dục về khoa học giáo dục”; Nguyễn Ngọc Quang “Những khái niệm cơ bản về lý luận quản

lý giáo dục”; Đặng Xuân Hải “Quản lý sự thay đổi vận dụng cho quản lý giáo dục và nhà trường”;…

Quản lý dạy học môn Ngữ văn tích hợp với giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh tại trường trung học cơ sở Vân Hà, Đông Anh, Hà Nội - 3

Nghiên cứu về vấn đề QL HĐDH môn Ngữ văn hiện nay có một số luận văn Thạc sĩ tiêu biểu như: Luận văn của tác giả Đỗ Văn Tuấn về “Những biện pháp quản lý dạy – học môn Văn ở trường trung học phổ thông Trần Nguyên Hãn – TP Hải Phòng”; Hoàng Thị Kim Hoạt với “Biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn Ngữ văn ở trường trung học phổ thông Đình Lập tỉnh Lạng Sơn”.

Bên cạnh đó, tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại đang được quan tâm nghiên cứu và áp dụng trong chương trình giáo dục của nhiều nước trên thế giới và ở Việt Nam trong những năm gần đây. Nghiên cứu về vấn đề này, đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu một cách cụ thể, có hệ thống, tiêu biểu như: Đề tài của tác giả Trần Bá Hoành “Dạy học tích hợp”; tác giả Nguyễn Văn Đường “Tích hợp trong dạy học Ngữ văn bậc THCS”;tác giả Cao Thị Thặng “Vận dụng quan điểm tích hợp trong việc phát triển chương trình giáo dục Việt Nam giai đoạn sau 2015”

Qua đó ta thấy nghiên cứu về QL DHTH đã trở thành mối quan tâm của nhiều nhà giáo dục. Tuy nhiên, vấn đề nghiên cứu về biện pháp QL hoạt động dạy học Ngữ văn tích hợp với giáo dục nếp sống TLVM ở trường THCS thì lại chưa có một công trình nghiên cứu cụ thể nào. Vì vậy, tác giả đặt vấn đề nghiên cứu pháp QL hoạt động dạy học Ngữ văn tích hợp với giáo dục nếp sống TLVM ở trường THCS Vân Hà, Đông Anh, Hà Nội. Từ đó đề ra các biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn Ngữ văn tích hợp với giáo dục nếp sống TLVM nhằm nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.

1.2. Một số khái niệm cơ bản về quản lý‌‌

1.2.1. Quản lý

Quản lý là một trong những hoạt động cơ bản nhất của con người xét trên nhiều phạm vi cá nhân, tập đoàn, quốc gia hoặc nhóm quốc gia. Hoạt động quản lý (QL) xuất hiện khi loài người hình thành hoạt động nhóm. Qua lao động, để duy trì sự sống, đòi hỏi sự phối hợp hoạt động giữa cá nhân con người. Hoạt động QL là một hiện tượng tất yếu phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người nhằm đoàn kết lại tạo nên sức mạnh tập thể, thống nhất thực hiện một mục đích chung. Từ thời thượng cổ, trung cổ đến thời hiện đại, trải qua hàng nghìn năm lịch sử phát triển hoạt động QL đã có những phát triển và trở thành bộ môn khoa học quản lý.

C.Mac đã viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều đều cần đến một sự chỉ đạo điều hành những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể, khác với sự vận động của các khí quan độc lập với nó. Một người độc tấu vĩ cầm thì tự điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”. [10, tr. 180]

C.Mác đã nói lên được bản chất của quản lý là hoạt động lao động để điều khiển quá trình lao động, một hoạt động tất yếu của loài người.

Tác giả F.W.Taylor - người đầu tiên nghiên cứu quá trình lao động trong từng bộ phận của nó, nêu ra hệ thống tổ chức lao động nhằm khai thác tối đa thời gian lao động, sử dụng hợp nhất các công cụ và phương tiện lao động nhằm tăng năng suất lao động - cho rằng cốt lõi trong QL là: “Mỗi loại công việc dù nhỏ nhất đều phải chuyên môn hóa và phải quản lý chặt chẽ”, “Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ

nhất”. 24, tr. 1Còn H. Koontz thì lại khẳng định: “Quản lý là một hoạt động thiết

yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm (tổ chức). Mục tiêu của quản lý là hình thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất”. [18, tr. 327]

Ở Việt Nam cũng đã có rất nhiều tác giả đưa ra những khái niệm về quản lý.

Theo các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc, quản lý là: “Quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đhóa và kiểm tra”. [11, tr. 9]

Tác giả Nguyễn Ngọc Quang quan niệm: “Quản lý là hoạt động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động nói chung là khách thể quản lý nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến”. [32, tr. 25]

Trong quản lý có hai bộ phận khăng khít, đó là chủ thể quản lý và khách thể quản lý. Chủ thể quản lý có thể là cá nhân hay một nhóm người có chức năng quản lý hay điều khiển tổ chức, làm cho tổ chức vận hành và đạt tới mục tiêu. Khách thể quản lý bao gồm những người thừa hành nhiệm vụ trong tổ chức, chịu sự tác động, chỉ đạo của chủ thể quản lý nhằm đạt mục tiêu chung.

Như vậy, có thể nói QL là một khái niệm rộng, bao gồm nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, và được hiểu dưới những góc độ, quan điểm khác nhau. Nhưng dù ở lĩnh vực hay góc độ nào đi nữa thì, theo chúng tôi, QL cũng là sự tác động có định hướng, mang tính hệ thống, được thực hiện có ý thức, có tổ chức của chủ thể QL lên đối tượng QL, bằng cách vạch ra mục tiêu của tổ chức, đồng thời tìm kiếm các biện pháp, cách thức tác động vào tổ chức nhằm đạt mục tiêu đề ra. Nhưng sự tác động của quản lý phải bằng cách nào đó để người bị quản lý luôn luôn hồ hởi, phấn khởi đem hết năng lực và trí tuệ để sáng tạo ra lợi ích cho bản thân, cho tổ chức và cho cả xã hội.

1.2.2. Quản lý giáo dục và chức năng quản lý giáo dục

1.2.2.1. Quản lý giáo dục

Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ loài người, từ thế hệ trước cho thế hệ sau, thế hệ sau tiếp thu những kinh nghiệm xã hội đó và ngoài ra còn sáng tạo ra những kinh nghiệm mới làm giàu và phong phú thêm, bổ sung thêm cho kho tàng kiến thức của nhân loại, thúc đẩy xã hội loài người không ngừng phát triển. Như vậy, giáo dục chính là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, có nội dung và bằng phương pháp khoa học của nhà giáo dục tới người được giáo dục, nhằm hình thành và phát triển nhân cách cho họ.

Quản lý giáo dục là một chuyên ngành được phát triển trên nền tảng của khoa học quản lý nói chung, cũng giống như khái niệm quản lý, khái niệm QLGD cũng có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Ở đây chúng tôi chỉ đề cập tới khái niệm QLGD trong phạm vi quản lý một hệ thống GD nói chung mà hạt nhân của hệ thống QLGD.

Trong cuốn “Cơ sở lý luận khoa học quản lý giáo dục”, M.I.Kôndakov viết: “Không đòi hỏi một định nghĩa hoàn chỉnh thì chúng ta không hiểu quản lý nhà trường (công việc nhà trường) là hệ thống xã hội - sư phạm chuyên biệt, hệ thống này đòi hỏi những tác động có ý thức, có khoa học và có hướng chủ thể quản lý trên cơ sở các mặt của đời sống nhà trường để đảm bảo sự vận hành tối ưu xã hội - kinh tế và tổ chức sư phạm của quá trình dạy học và giáo dục thế hệ

đang lớn lên.” 23, tr. 94

Theo tác giả Bush T. (trong tác phẩm Theories of Education Management, PCP, London, 1995): “Quản lý giáo dục, một cách khái quát, là sự tác động có tổ chức và hướng đích của chủ thể quản lý giáo dục tới đối tượng quản lý giáo dục theo cách sử dụng các nguồn lực càng có hiệu quả càng tốt nhằm đạt mục tiêu đề ra”.

Ở Việt Nam, QLGD cũng là lĩnh vực được nhiều nhà quan tâm nghiên cứu.

Theo các tác giả Bùi Minh Hiền, Vũ Ngọc Hải, Đặng Quốc Bảo thì: “Quản lý nhà nước về giáo dục là sự tác động của chủ thể quản lý mang quyền lực nhà nước (các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục), chủ yếu bằng pháp luật tới các đối tượng quản lý nhằm thực hiện mục tiêu đề ra”. [20, tr. 114-115]

Theo Đặng Xuân Hải, Nguyễn Sỹ Thư: Quản lý nhà nước về giáo dục là: “Sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các hoạt động giáo dục và đào tạo do các cơ quan có trách nhiệm về quản lý giáo dục của Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng nhiệm vụ theo quy định của nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo , duy trì kỉ cương, thỏa mãn nhu cầu được giáo dục và đào tạo của nhân dân, thực hiện mục tiêu giáo dục và đào tạo của nhà nước”. [19, tr. 6]

Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất”. [32, tr. 31]

Những khái niệm trên về QLGD tuy có những cách diễn đạt khác nhau nhưng tựu chung lại có thể hiểu là sự tác động có tổ chức, có định hướng phù hợp với quy luật khách quan của chủ thể quản lý ở các cấp lên đối tượng quản lý nhằm đưa hoạt động GD của từng cơ sở và toàn bộ hệ thống GD đạt tới mục tiêu.

Tóm lại, QLGD là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng giáo dục nhằm đẩy mạnh công tác giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội. Nhà trường là đối tượng cuối cùng và cơ bản nhất của QLGD, trong đó đội ngũ GV và HS là đối tượng QL quan trọng nhất nhưng đồng thời là chủ thể trực tiếp QL quá trình giáo dục.

1.2.2.2. Chức năng quản lý giáo dục.

Chức năng của quản lý là hình thức biểu hiện sự tác động có chủ định của chủ thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản lý, là tập hợp các nhiệm vụ khác nhau mà chủ thể QL phải tiến hành trong quá trình QL. Thông qua các chức năng QL, người ta xác định các khối lượng công việc cơ bản và trình tự tiến hành các công việc của quá trình QL. Trong mọi quá trình QL, người QL phải thực hiện một dãy chức năng kế tiếp nhau một cách lôgic, bắt buộc, bắt đầu từ việc xác định mục tiêu và nhiệm vụ QL đến khi kiểm tra các kết quả đạt được.

Qua nghiên cứu lý luận và thực tế của công tác QL nói chung ta có thể hiểu chức năng quản lý là một nội dung cơ bản của quá trình quản lý, là việc làm không thể thiếu được của chủ thể quản lý. Về số lượng các chức năng quản lý, hầu hết các tác giả đều đề cập tới bốn chức năng chủ yếu đó là: Kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra và trong đó thông tin vừa là phương tiện, vừa là điều kiện để thực hiện chức năng quản lý.

- Chức năng kế hoạch hóa: Là hoạch định các công việc cần thực hiện một cách chủ động và khoa học. Kế hoạch hóa là chức năng đầu tiên, quan trọng nhất của việc lãnh đạo, soạn thảo và thông qua những quyết định quản lý quan trọng nhất. Kế hoạch hóa bao gồm việc xây dựng mục tiêu, chương trình hành động, xác định từng bước đi, những điều kiện, phương tiện cần thiết trong một thời gian nhất định của hệ thống QL và bị QL trong nhà trường. Đây được coi là chức năng chỉ lối làm cho tổ chức phát triển theo kế hoạch. Trong quản lý đây là căn cứ mang tính pháp lý quy định hành động của cả tổ chức.

- Chức năng tổ chức: Là hoạt động QL nhằm thiết lập một hệ thống các vị trí cho mỗi cá nhân và bộ phận sao cho các cá nhân và bộ phận có thể phối hợp với nhau một cách tốt nhất để thực hiện mục tiêu chiến lược của tổ chức. Người quản lý phải hình thành bộ máy tổ chức là cơ cấu các bộ phận (tuỳ theo tính chất công việc, có thể tiến hành phân công, phân nhiệm cho các cá nhân), quy định chức năng nhiệm vụ từng bộ phận, mối quan hệ giữa chúng. Nhờ tổ chức mà kỷ cương, nề nếp, tác phong làm việc khoa học, sự đoàn kết nhất trí trong tổ chức được đảm bảo; năng lực, sở trường của mỗi người và mỗi bộ phận được phát huy.

- Chức năng chỉ đạo: Là việc đưa ra những quyết định QL nhằm trước hết duy trì sự phối hợp giữa các bộ phận, các hoạt động làm cho toàn bộ hệ thống vận hành nhịp nhàng; tiếp đến là giám sát các các hoạt động, các trạng thái vận hành của hệ thống qua đó điều chỉnh, sửa đổi, uốn nắn các tác nhân cần thiết có liên quan, đảm bảo sự vận hành đúng hướng, duy trì và giữ vững mục tiêu của toàn hệ thống. Bản chất của chức năng chỉ đạo xét cho cùng là sự tác động lên con người, khơi dậy những tiềm năng của con người trong hệ thống quản lý, thực hiện tốt mối liên hệ giữa con người với con người và quá trình đó giải quyết những mối quan hệ đó để họ tự nguyện, tự giác và hăng hái phấn đấu trong công việc.

- Chức năng kiểm tra: Kiểm tra có vai trò quan trọng trong quá trình QL, là nhu cầu cơ bản để hoàn thành các quyết định QL. Có thể nói rằng “không có kiểm tra là không có QL”. Chức năng kiểm tra nhằm đánh giá việc thực hiện các mục tiêu đề ra, điều cần lưu ý là khi kiểm tra phải theo chuẩn. Chuẩn phải xuất phát từ mục tiêu, là đòi hỏi bắt buộc đối với mọi thành viên của tổ chức. Đồng thời kịp thời phát hiện những sai sót hay lệch lạc trong quá trình hệ thống vận hành để từ đó đề ra các biện pháp xử lý kịp thời, thích hợp.

Cuối cùng, tất cả các chức năng trên đều cần đến yếu tố thông tin. Thông tin đầy đủ, kịp thời, cập nhật, chính xác là một căn cứ để nhà quản lý điều hành bộ máy của mình.

Tổ chức

Kiểm tra

Kế hoạch hóa

Thông tin quản lý

Các chức năng quản lý có sự đan xen kết hợp hỗ trợ và thúc đẩy nhau để cùng thực hiện mục tiêu của quá trình quản lý. Có thể mô tả vị trí của các chức năng trong một quá trình quản lý như sau:


Chỉ đạo

Sơ đồ 1.1. Các chức năng quản lý

1.2.3. Quản lý trường học

1.2.3.1. Nhà trường

Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Trường học là một bộ phận của hệ thống xã hội, ở đó tiến hành quá trình giáo dục và đào tạo, gọi chung là “cơ sở giáo dục”. Có nhiều khái niệm khác nhau về nhà trường:

Theo M.I Kondacov: “Nhà trường là một thiết chế đặc biệt của xã hội, là nơi thực hiện các chức năng kiến tạo các kinh nghiệm xã hội cho một nhóm dân cư được huy động vào sự kiến tạo này một cách tối ưu theo quan niệm xã hội, thực hiện chức năng tạo nguồn cho các yêu cầu của xã hội, đào tạo các công dân tương lai” [25].

Theo giáo trình “Giáo dục học” tập 1: “Nhà trường là một thiết chế nhà nước

- xã hội có chức năng chuyên trách trong việc chuyển giao kinh nghiệm xã hội cho thế hệ trẻ của một đất nước” [28].

“Nhà trường là một tổ chức chuyên biệt trong hệ thống tổ chức xã hội thực hiện chức năng tái tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự duy trì và phát triển xã hội”. [4, tr. 3]

Xem tất cả 161 trang.

Ngày đăng: 17/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí