Quản lý dạy học Ngữ văn ĐHNL học sinh là quá trình người Hiệu trưởng hoạch định, tổ chức, điều khiển, kiểm tra hoạt động dạy học của giáo viên nhằm đạt mục tiêu đã đề ra. Trong toàn bộ quá trình quản lý nhà trường thì QLDH nói chung và hoạt động dạy học nói riêng của người Hiệu trưởng là hoạt động cơ bản. Nó chiếm thời gian và công sức rất lớn của người Hiệu trưởng, bởi vì nhiệm vụ hàng đầu của quản lý dạy học là quản lý có hiệu quả các thành tố cấu trúc của dạy học từng phân môn trong đó có môn Ngữ văn. Hiệu trưởng cần tác động và tạo điều kiện cho sự cộng tác tối ưu giữa GV và HS nhằm xác định đúng mục tiêu, lựa chọn nội dung phù hợp kế hoạch, áp dụng hài hòa các phương pháp, tận dụng các phương tiện và điều kiện hiện có, tổ chức linh hoạt các hình thức dạy học, tìm ra phương thức kiểm tra - đánh giá kết quả dạy học đáng tin cậy.
Nói tóm lại, chúng ta có thể hiểu QL dạy học môn Ngữ văn ĐHNL học sinh là quá trình quản lý của người hiệu trưởng thông qua các chức năng lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra hoạt động dạy học môn Ngữ văn của giáo viên, nhằm giúp giáo viên thực hiện đúng các mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức, đánh giá học sinh học của GV môn Ngữ văn. Từ đó, nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn trong các nhà trường theo ĐHNL cho học sinh.
1.3. Những vấn đề cơ bản về dạy học môn Ngữ văn theo định hướng năng lực học sinh ở trường Trung học cơ sở
1.3.1. Khái quát về đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Trung học cơ sở
Học sinh THCS đang ở tuổi thiếu niên (từ 11 đến 15 tuổi), là độ tuổi có sự thay đổi nhanh chóng về tình cảm, trí tuệ, thể chất, tâm lý. Cụ thể, về mặt sinh các em có sự tăng trưởng mạnh về chiều cao, trọng lượng cơ thể, các dấu hiệu dậy thì xuất hiện. Ở giai đoạn lứa tuổi này, về trí tuệ tiếp tục diễn ra sự phát triển của trí nhớ, đặc biệt trí nhớ ý nghĩa, chú ý có chủ định, và vận động, tư duy lôgic và trừu tượng cũng phát triển mạnh. Học sinh hoàn toàn có khả năng tiếp thu các khái niệm trừu tượng. Ngoài việc học tập, nhu cầu trong giao tiếp bạn bè, việc lĩnh hội các chuẩn mực và giá trị môi trường cũng bắt đầu diễn ra. Trong các mối quan hệ với cha mẹ, người xung quang, xuất hiện các dấu hiệu như phản ứng, muốn thoát khỏi sự áp đặt quan điểm của người lớn. Các em muốn khẳng định mình là đã trưởng thành và mong muốn sự công nhận từ người lớn.
Như vậy, HS ở khối THCS không thích sự áp đặt mà luôn muốn tự khẳng định mình. Điều này đối với dạy học PTNL có nhiều thuận lợi nhưng không ít những
khó khăn. Khi giáo viên giảng dạy biết nắm bắt điều này, đưa các em vào những hoạt động tự mình khám phá kiến thức, tự tìm tòi để đưa ra kết luận thì các em cảm thấy thoải mái trong học tập, hình thành sự tự tin và phát huy khả năng của bản thân. Điều đó giúp hình thành và PTNL mới được dễ dàng, thuận lợi. Tuy nhiên với đặc điểm tò mò, thích khám phá điều mới lạ, GV không chú ý giám sát, điều chỉnh kịp thời các em có nguy cơ khám phá những điều người lớn không mong muốn. Dẫn đến, các em sẽ sa đà chệch hướng của hoạt động dạy học. Vì vậy, trong giáo dục trẻ nói chung và dạy học ĐHNL nói riêng, thầy cô và cha mẹ học sinh cần nắm được đặc điểm về tâm sinh lý của trẻ để đưa ra biện pháp giáo dục phù hợp thì mới đem lại hiệu quả.
1.3.2. Đặc điểm của môn học Ngữ văn
Ngữ văn là môn học thuộc lĩnh vực Giáo dục ngôn ngữ và văn học, được học từ lớp 1 đến lớp 12. Ở cấp tiểu học, môn học này có tên là Tiếng Việt; ở cấp trung học cơ sở và cấp trung học phổ thông có tên là Ngữ văn.
Ngữ văn là môn học mang tính công cụ và tính thẩm mĩ - nhân văn; giúp HS có phương tiện giao tiếp, làm cơ sở để học tập tất cả các môn học và hoạt động GD khác trong nhà trường; đồng thời cũng là công cụ quan trọng để giáo dục HS những giá trị cao đẹp về văn hóa, văn học và ngôn ngữ dân tộc; phát triển ở HS những cảm xúc lành mạnh, tình cảm nhân văn, lối sống nhân ái, vị tha,...
Thông qua các văn bản ngôn từ và những hình tượng nghệ thuật sinh động trong các tác phẩm văn học, bằng hoạt động nghe, nói, đọc, viết môn Ngữ văn có vai trò to lớn trong việc giúp HS hình thành và phát triển những phẩm chất tốt đẹp cũng như các năng lực cốt lõi để sống và làm việc hiệu quả, để học suốt đời.
Nội dung môn Ngữ văn mang tính tổng hợp, bao gồm cả tri thức văn hoá, đạo đức, triết học,... liên quan tới nhiều môn học và hoạt động giáo dục khác như Lịch sử, Địa lí, Nghệ thuật, Giáo dục công dân, Ngoại ngữ, Tự nhiên và Xã hội, Hoạt động trải nghiệm, Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp,… Môn Ngữ văn cũng liên quan mật thiết với cuộc sống; giúp học sinh biết quan tâm, gắn bó hơn với đời sống thường nhật, biết liên hệ và có kĩ năng giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn. Nội dung cốt lõi của môn học bao gồm các mạch kiến thức và kĩ năng cơ bản,
thiết yếu về tiếng Việt và văn học, đáp ứng các yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực của học sinh ở từng cấp học; được phân chia theo hai giai đoạn: giai đoạn giáo dục cơ bản và giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp.
Giai đoạn giáo dục cơ bản: Chương trình được thiết kế theo các mạch chính tương ứng với các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Kiến thức tiếng Việt và văn học được tích hợp trong quá trình dạy học nghe, nói, đọc, viết. Các ngữ liệu được lựa chọn và sắp xếp phù hợp với khả năng tiếp nhận của HS ở mỗi cấp học. Mục tiêu của giai đoạn này là giúp HS sử dụng tiếng Việt thành thạo để giao tiếp hiệu quả trong cuộc sống và học tập tốt các môn học, hoạt động giáo dục khác; hình thành và PTNL văn học, một biểu hiện của năng lực thẩm mĩ; đồng thời bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm để HS phát triển về tâm hồn, nhân cách.
Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp: Chương trình củng cố và phát triển các kết quả của giai đoạn giáo dục cơ bản, giúp HS nâng cao năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học, nhất là tiếp nhận văn bản văn học; tăng cường kĩ năng tạo lập văn bản nghị luận, văn bản thông tin có độ phức tạp hơn về nội dung và kĩ thuật viết; trang bị một số kiến thức lịch sử văn học, lí luận văn học có tác dụng thiết thực đối với việc đọc và viết về văn học; tiếp tục bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, tâm hồn, nhân cách để học sinh trở thành người công dân có trách nhiệm. Ngoài ra, trong mỗi năm, những học sinh có định hướng khoa học xã hội và nhân văn được chọn học một số chuyên đề học tập. Các chuyên đề này nhằm tăng cường kiến thức về văn học và ngôn ngữ, kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, đáp ứng sở thích, nhu cầu và định hướng nghề nghiệp của HS.
1.3.3. Quan điểm xây dựng chương trình môn Ngữ văn
Chương trình môn Ngữ văn tuân thủ các quy định cơ bản được nêu trong Chương trình tổng thể (năm 2018), đồng thời nhấn mạnh một số quan điểm sau:
- Chương trình được xây dựng trên nền tảng lí luận và thực tiễn, cập nhật thành tựu nghiên cứu về giáo dục học, tâm lí học và phương pháp dạy học Ngữ văn; thành tựu nghiên cứu về văn học và ngôn ngữ học; thành tựu văn học Việt Nam qua các thời kì; kinh nghiệm xây dựng chương trình môn Ngữ văn của Việt Nam, đặc biệt từ đầu thế kỉ XXI đến nay và xu thế quốc tế trong phát triển chương trình nói chung, chương trình môn Ngữ văn nói riêng những năm gần đây, nhất là chương trình của những quốc gia phát triển; thực tiễn xã hội, giáo dục, điều kiện kinh tế và truyền thống văn hoá Việt Nam, đặc biệt là sự đa dạng của đối tượng HS xét về phương diện vùng miền, điều kiện và khả năng học tập.
- Chương trình lấy việc rèn luyện các kĩ năng giao tiếp (đọc, viết, nói và nghe) làm trục chính xuyên suốt cả ba cấp học nhằm đáp ứng yêu cầu của chương trình theo ĐHNL và bảo đảm tính chỉnh thể, sự nhất quán liên tục trong tất cả các cấp học, lớp học. Các kiến thức phổ thông cơ bản, nền tảng về tiếng Việt và văn học được hình thành qua hoạt động dạy học tiếp nhận và tạo lập văn bản; phục vụ trực tiếp cho yêu cầu rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe.
- Chương trình được xây dựng theo hướng mở, thể hiện ở việc không quy định chi tiết về nội dung dạy học mà chỉ quy định những yêu cầu cần đạt về nghe, nói, đọc, viết cho mỗi lớp; quy định một số kiến thức cơ bản, cốt lõi về tiếng Việt, văn học và một số văn bản có vị trí, ý nghĩa quan trọng của văn học dân tộc là nội dung thống nhất bắt buộc đối với HS toàn quốc.
- Chương trình vừa đáp ứng yêu cầu đổi mới, vừa chú trọng kế thừa và phát huy những ưu điểm của các chương trình môn Ngữ văn đã có, đặc biệt là chương trình hiện hành.
1.3.4. Dạy học môn Ngữ văn theo định hướng năng lực của học sinh ở trường Trung học cơ sở
1.3.4.1. Mục tiêu dạy học môn Ngữ văn theo định hướng năng lực học sinh ở trường THCS
Mục tiêu của dạy Ngữ văn là dạy người. Đây là môn học có đặc thù riêng không phải như toán học, hóa học. Ngữ văn ngoài việc cung cấp những kiến thức, tri thức thì mục tiêu hướng tới là dạy con người biết yêu thương, nhân ái, đoàn kết, biết sẻ chia, biết ghét những thói xấu, biết căm giận trước thế lực bạo tàn, biết yêu thương đồng loại, mở rộng hơn nữa là tình người… Dạy học Ngữ văn theo ĐHNL không nằm ngoài mục tiêu cao cả đó. Cần phát huy năng lực cảm thụ văn học, năng lực sáng tạo ngôn từ và rất cần năng lực thẩm mĩ hướng tới các giá trị Chân - Thiện - Mĩ.
Theo chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn (năm 2018), mục tiêu dạy học môn Ngữ văn ở bậc THCS nhằm:
- Giúp HS tiếp tục phát triển những phẩm chất tốt đẹp đã được hình thành ở tiểu học; nâng cao và mở rộng yêu cầu phát triển về phẩm chất với các biểu hiện cụ thể như: biết tự hào về lịch sử dân tộc và văn học dân tộc; có ước mơ và khát vọng, có tinh thần tự học và tự trọng, có ý thức công dân, tôn trọng pháp luật.
- Tiếp tục phát triển các năng lực chung, năng lực ngôn ngữ, năng lực văn học đã hình thành ở cấp tiểu học với các yêu cầu cần đạt cao hơn. Phát triển năng lực
ngôn ngữ với yêu cầu: phân biệt được các loại văn bản văn học, văn bản nghị luận và văn bản thông tin; đọc hiểu được cả nội dung tường minh và nội dung hàm ẩn của các loại văn bản; viết được đoạn và bài văn tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh, nhật dụng hoàn chỉnh, mạch lạc, logic, đúng quy trình và có kết hợp các phương thức biểu đạt; nói dễ hiểu, mạch lạc; có thái độ tự tin, phù hợp với ngữ cảnh giao tiếp; nghe hiểu với thái độ phù hợp.
- Phát triển năng lực văn học với yêu cầu: phân biệt được các thể loại truyện, thơ, kí, kịch bản văn học và một số tiểu loại cụ thể; nhận biết được đặc điểm của ngôn ngữ văn học, nhận biết và phân tích được tác dụng của những yếu tố hình thức và biện pháp nghệ thuật gắn với mỗi thể loại văn học; nhận biết được giá trị biểu cảm, giá trị nhận thức, giá trị thẩm mĩ; phân tích được tính hình tượng, nội dung và hình thức của tác phẩm văn học; có thể tạo ra được một số sản phẩm có tính văn học.
Các năng lực đặc thù trong dạy học Ngữ văn
Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018, môn Ngữ văn được coi là môn học công cụ. Vì thế, năng lực giao tiếp tiếng Việt và năng lực thưởng thức văn học/ cảm thu thẩm mỹ là các năng lực mang tính đặc thù của môn học. Ngoài ra, năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác, năng lực tự quản bản thân (là các năng lực chung) cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định các nội dung dạy học của môn học.
Các năng lực mà môn Ngữ văn hướng đến cụ thể như sau:
* Năng lực giải quyết vấn đề (GQVĐ)
Năng lực GQVĐ bao gồm việc nhận biết được mâu thuẫn giữa tình huống thực tế với hiểu biết của cá nhân và chuyển hóa được mâu thuẫn thành vấn đề đồi hỏi sự tìm tòi, khám phá; thể hiện khả năng của cá nhân trong quá trình thu thập và xử lí thong tin từ các nguồn khác nhau, đề xuất phương án và thực hiện phương án đã chọn, điều chỉnh trong quá trình, đánh giá hiệu quả của phương án và đề xuất vận dụng trong các tình huống mới tương tự.
Với bộ môn Ngữ văn, năng lực này cần định hướng đến khi triển khai các nội dung dạy học bộ môn, do tính ứng dụng thực tiễn và quy trình hình thành năng lực có thể gắn với các bối cảnh học tập (tiếp nhận và tạo lập văn bản) của môn học, khi nảy sinh tình huống có vấn đề.
* Năng lực sáng tạo
Năng lực sáng tạo được hiểu là sự thể hiện khả năng của học sinh trong việc tìm tòi, phát hiện những ý tưởng mới nảy sinh trong học tập và cuộc sống. Từ đó, đề xuất các giải pháp mới một cách thiết thực, hiệu quả để thực hiện ý tưởng. Trong việc đề xuất và thực hiện ý tưởng, học sinh bộc lộ óc tò mò, niềm say mê tìm hiểu khám phá.
Việc hình thành và phát triển năng lực sáng tạo cũng là một mục tiêu mà môn học Ngữ văn hướng tới. Năng lực này thể hiện trong việc xác định tình huống và những ý tưởng, đặc biệt những ý tưởng được gửi gắm trong các văn bản văn học, trong tìm hiểu, xem xét các sự vật, hiện tượng từ những góc nhìn khác nhau, trong cách trình bày suy nghĩ và cảm xúc của học sinh trước vẻ đẹp một giá trị của cuộc sống.
Năng lực suy nghĩ sáng tạo bộc lộ thái độ đam mê và khát khao được tìm hiểu của HS, không suy nghĩ theo lối mòn, công thức. Trong các giờ đọc hiểu văn bản, một trong những yêu cầu cao là HS, với tư cách người học, phải trở thành người đồng sáng tạo với tác phẩm (khi có được những cách cảm nhận riêng, độc đáo về nhân vật, về hình ảnh, ngôn từ của tác phẩm; có cách diễn đạt và cách trình bày giàu sắc thái cá nhân trước một vấn đề,…).
* Năng lực hợp tác
Hợp tác là hình thức HS làm việc cùng nhau trong nhóm nhỏ để hoàn thành công việc chung và các thành viên trong nhóm có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, giúp đỡ nhau để gải quyết các vấn đề khó khăn của nhau. Khi HS làm việc cùng nhau sẽ học được cách làm việc chung, cho và nhận sự giúp đỡ, hòa giải bất đồng, lắng nghe người khác và giải quyết vấn đề theo hướng dân chủ. Đây là hình thức học tập giúp HS ở mọi cấp học phát triển cả về thành tích học và tập quan hệ xã hội.
Năng lực hợp tác được hiểu là khả năng tương tác của cá nhân với cá nhân và tập thể trong học tập và cuộc sống. Đây là một năng lực rất cần thiết trong xã hội hiện đại khi chúng ta đang sống trong một không gian, một môi trường mở của quá trình hội nhập.
Trong môn học Ngữ văn, năng lực hợp tác thể hiện ở việc HS cùng chia sẻ, phối hợp với nhau trong các hoạt động học tập qua việc thực hiện các nhiệm vụ học tập diễn ra trong giờ học. Thông qua các hoạt động nhóm, HS thể hiện những suy
nghĩ, cảm nhận của cá nhân về những vấn đề đặt ra, đồng thời lắng nghe những ý kiến trao đổi, thảo luận của nhóm để tự điều chỉnh cá nhân mình. Đây là những yếu tố rất quan trọng góp phần hình thành nhân cách của người HS trong bối cảnh mới.
* Năng lực tự quản bản thân
Năng lực này thể hiện ở khả năng của mỗi con người trong việc kiểm soát cảm xúc, hành vi của bản thân trong các tình huống của cuộc sống, ở việc biết lập kế hoạch và làm việc theo kế hoạch, ở khả năng nhận ra và tự điều chỉnh hành vi của cá nhân trong các bối cảnh khác nhau. Khả năng tự quản bản thân giúp mỗi người luôn chủ động và có trách nhiệm đối với những suy nghĩ, việc làm của mình, sống có kỷ luật, biết tôn trọng người khác và tôn trọng chính mình.
Cũng như môn học khác, môn Ngữ văn cũng cần hướng đến việc rèn luyện và phát triển ở HS năng lực tự quản bản thân. Trong các bài học, HS cần xác định các kế hoạch hành động cho cá nhân và chủ động điều chỉnh kế hoạch để đạt được mục tiêu đặt ra, nhận biết những tác động của ngoại cảnh đến việc tiếp thu kiến thức và rèn luyện kĩ năng của cá nhân để khai thác, phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế những yêu tố tiêu cực, từ đó xác định được hành vi đúng đắn, cần thiết trong những tình huống của cuộc sống.
Trong quá trình dạy học các môn cũng như dạy học Ngữ văn, quá trình thực hiện một nội dung học tập nhằm hình thành đồng thời nhiều năng lực, bởi thế cần vận dụng một cách hợp lí phương pháp và quy trình dạy học giúp HS thể hiện được các năng lực của cá nhân trong từng nội dung học tập.
* Năng lực giao tiếp tiếng Việt
Giao tiếp là hoạt động trao đổi thông tin giữa người nói và người nghe nhằm đạt được một mục đích nào đó.Việc trao đổi thông tin được thực hiện bằng nhiều phương tiện. Tuy nhiên, phương tiện sử dụng quan trọng nhất trong giao tiếp là ngôn ngữ. Năng lực giao tiếp do đó được hiểu là khả năng sử dụng các quy tắc của hệ thống ngôn ngữ để chuyển tải, trao đổi thông tin về các phương diện của đời sống xã hội, trong từng bối cảnh, ngữ cảnh cụ thể, nhằm đạt đến một mục đích nhất định trong việc thiết lập mối quan hệ giữa những con người với nhau trong xã hội.
Trong môn Ngữ văn, việc hình thành và phát triển cho HS năng lực giao tiếp ngôn ngữ là một mục tiêu quan trọng, cũng là mục tiêu thế mạnh mang tính đặc thù
của môn học. Thông qua những bài học về sử dụng tiếng Việt, HS được hiểu về các quy tắc của hệ thống ngôn ngữ và cách sử dụng phù hợp, hiệu quả và cách sử dụng phù hợp, hiệu quả trong các tình huống giao tiếp cụ thể. Học sinh được luyện tập, những tình huống hội thoại, các phương châm hội thoại, từng bước làm chủ tiếng Việt trong các hoạt động giao tiếp. Các bài đọc hiểu văn bản cũng tạo môi trường, bối cảnh để học sinh được giao tiếp cùng tác giả và môi trường sống xung quanh, được hiểu và nâng cao khả năng sử dụng tiếng Việt, văn hóa, văn học. Đây cũng là mục tiêu chi phối trong việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn là dạy học theo quan điểm giao tiếp, coi trọng khả năng thực hành, vận dụng những kiến thức tiếng Việt trong những bối cảnh giao tiếp đa dạng của cuộc sống.
Năng lực giao tiếp trong các nội dung dạy học tiếng Việt được thể hiện ở 4 kĩ năng cơ bản: Nghe - Nói - Đọc - Viết và khả năng ứng dụng các kiến thức và kĩ năng ấy vào các tình huống giao tiếp khác nhau trong cuộc sống.
* Năng lực thưởng thức văn học/ Cảm thụ thẩm mĩ
Năng lực cảm thụ thẩm mĩ thể hiện khả năng của mỗi cá nhân trong việc nhận ra được các giá trị thẩm mĩ của sự vật, hiện tượng, con người và cuộc sống, thong qua những cảm nhận, rung động trước cái đẹp và cái thiện, từ đó biết hướng những suy nghĩ, hành vi của mình theo cái đẹp, cái thiện. Như vậy, năng lực cảm thụ thẩm mĩ thường dùng với hàm nghĩa nói về các chỉ số cảm xúc của mỗi cá nhân. Chỉ số này mô tả khả năng tự nhận thức để xác định, đánh giá và điều tiết cảm xúc của chính mỗi người, của người khác, của các nhóm cảm xúc.
1.3.4.2. Nội dung dạy học môn Ngữ văn theo định hướng năng lực học sinh ở trường THCS
- Môn Ngữ văn ở trường THCS được chia ra làm 4 khối lớp, gồm: Lớp 6,7,8,9. Trong đó mỗi khối lớp 6,7,8 môn Ngữ văn gồm 140 tiết/37 tuần học (mỗi tuần học 04 tiết), khối lớp 9 175 tiết/37 tuần học (mỗi tuần 05 tiết).
Nội dung môn Ngữ văn ĐHNL có thể chia theo các 06 dạng kiểu bài như sau: Kiểu bài Đọc - Hiểu văn bản; Kiểu bài học Lý thuyết Tiếng Việt; Kiểu bài học lý thuyết Tập làm văn; Kiểu bài Tự học có hướng dẫn hoặc hướng dẫn đọc thêm; Kiểu bài Ôn tập, luyện tập, luyện nói; Kiểu bài kiểm tra, trả bài tập kiểm tra.
Với 06 dạng kiểu bài trên sẽ tương ứng với việc xác định NLPT của HS (bao gồm cả năng lực chung và năng lực đặc thù) như sau:
Nhóm bài, kiểu bài | Các năng lực cần đạt | |
1 | Đọc - Hiểu văn bản | - Các năng lực chung: Năng lực hợp tác; Năng lực sử dụng ngôn ngữ; Năng dụng ứng dụng CNTT; Năng lực giao tiếp; Năng lực hợp tác. - Các năng lực đặc thù của môn Ngữ văn: Năng lực giải quyết vấn đề; Năng lực hợp tác; Năng lực giao tiếp tiếng Việt; Năng lực cảm thu thẩm mĩ; Năng lực sáng tạo. |
2 | Lý thuyết Tiếng Việt | - Các năng lực chung: Năng lực sử dụng ngôn ngữ; Năng dụng ứng dụng CNTT; Năng lực giao tiếp; Năng lực hợp tác. - Các năng lực đặc thù của môn Ngữ văn: Năng lực giải quyết vấn đề; Năng lực tự quản bản thân; Năng lực hợp tác; Năng lực giao tiếp tiếng Việt; Năng lực cảm thụ thẩm mĩ. |
3 | Lý thuyết Tập làm văn | - Các năng lực chung: Năng lực sử dụng ngôn ngữ; Năng dụng ứng dụng CNTT; Năng lực giao tiếp; Năng lực hợp tác. - Các năng lực đặc thù của môn Ngữ văn: Năng lực giải quyết vấn đề; Năng lực tự quản bản thân; Năng lực hợp tác; Năng lực giao tiếp tiếng Việt; Năng lực cảm thụ thẩm mĩ. |
4 | Hướng dẫn đọc thêm | - Các năng lực chung: Năng lực tự học; Năng lực sử dụng ngôn ngữ; Năng lực quản lý bản thân; Năng dụng ứng dụng CNTT. - Các năng lực đặc thù của môn Ngữ văn: Năng lực giải quyết vấn đề; Năng lực tự quản bản thân; Năng lực hợp tác; Năng lực giao tiếp tiếng Việt; Năng lực cảm thụ thẩm mĩ. |
5 | Kiểu bài Luyện tập, Ôn tập, Luyện nói | - Các năng lực chung: Năng lực tự học; Năng lực hợp tác; Năng lực sử dụng ngôn ngữ; Năng dụng ứng dụng CNTT; Năng lực giao tiếp; Năng lực hợp tác. - Các năng lực đặc thù của môn Ngữ văn: Năng lực giải quyết vấn đề; Năng lực hợp tác; Năng lực giao tiếp tiếng Việt; Năng lực cảm thu thẩm mĩ; Năng lực sáng tạo. |
6 | Kiểm tra; Viết - Trả bài Tập làm văn | - Các năng lực chung: Năng lực tự học; Năng lực sử dụng ngôn ngữ; Năng lực sáng tạo; Năng lực quản lí bản thân. - Các năng lực đặc thù của môn Ngữ văn: Năng lực giải quyết vấn đề; Năng lực tự quản bản thân; Năng lực hợp tác; Năng lực giao tiếp tiếng Việt; Năng lực cảm thụ thẩm mĩ. |
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý dạy học môn Ngữ văn theo định hướng năng lực học sinh ở các trường trung học cơ sở thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh - 1
- Quản lý dạy học môn Ngữ văn theo định hướng năng lực học sinh ở các trường trung học cơ sở thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh - 2
- Dạy Học Ngữ Văn Định Hướng Năng Lực Học Sinh
- Phương Pháp Dạy Học Môn Ngữ Văn Theo Định Hướng Năng Lực Học Sinh Ở Trường Thcs
- Quản Lý Dạy Học Môn Ngữ Văn Theo Định Hướng Năng Lực Học Sinh Ở Các Trường Trung Học Cơ Sở
- Điều Kiện Của Địa Phương Nơi Nhà Trường Đang Hoạt Động