Nguyên Nhân Dẫn Đến Hạn Chế Trong Quản Lý Chi Ngân Sách Nhà Nước Cho Đầu Tư Xây Dựng Cơ Bản Ở Quân Chủng Phòng Không - Không Quân


phân bổ ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản, gây lãng phí nguồn lực. Hồ sơ, chứng từ của các đơn vị gửi thanh toán có nội dung chưa đảm bảo tính pháp lý, cá biệt có trường hợp chưa đủ khối lượng hoàn thành đã đề nghị thanh toán. Thanh toán ngân sách thường phải ùn ứ vào các tháng cuối năm. Bảng thanh toán giai đoạn hoàn thành của một số dự án, công trình lập chưa đúng, không thể hiện được khối lượng thực tế công việc hoàn thành. Một số công trình nhà thầu lập hồ sơ thanh toán với giá trị không phù hợp với thời gian triển khai thi công (thời gian thi công ngắn nhưng giá trị thanh toán lớn).

Năm là, tỷ lệ hấp thụ dự toán ngân sách còn thấp: Trong quá trình thực hiện cấp phát, thanh toán chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản ở Quân chủng PK-KQ có thể có nhiều yếu tố tác động đến khả năng hấp thụ dự toán ngân sách của dự án. Trong khi một số DA thiếu ngân sách để hoàn thành tiến độ thì một số DAĐT khác có ngân sách nhưng không hấp thụ được. Hệ số về hấp thụ ngân sách biểu hiện vai trò quan trọng nhằm đánh giá hiệu quả công tác điều hòa, phân bổ ngân sách giữa các DA của cơ quan quản lý. Tỷ lệ hấp thu năm 2015 là 0,81; năm 2016 là 0,92; năm 2017 là 0,82; năm 2018 là 0,86; năm 2019 là 0,97; năm 2020 là 0,65; bình quân giai đoạn đạt 0,85% điều đó có nghĩa rằng trong giai đoạn 2015-2020 việc bố trí dự toán chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản hằng năm chưa phù hợp với năng lực của chủ đầu tư các dự án.

Hạn chế thứ năm, trong quyết toán chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản ở Quân chủng Phòng không - Không quân

Một là, quyết toán niên độ năm chưa thẩm định kỹ hồ sơ của đơn vị và khối lượng thực tế thi công, dẫn đến việc một số nội dung đã tổng hợp báo cáo quyết toán niên độ nhưng qua kiểm tra, rà soát phải chuyển năm sau: Một số công trình, dự án thanh toán khối lượng hoàn thành để tổng hợp quyết toán theo niên độ năm nhưng hồ sơ chưa đầy đủ, hoặc thi công còn dang dở, nguyên nhân do chủ đầu tư và đơn vị tư vấn giám sát, nhà thầu chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm, lập biên bản nghiệm thu đề nghị thanh toán khi hồ sơ, khối lượng công trình chưa đầy đủ. Qua công tác kiểm tra, kiểm soát phải chuyển quyết toán năm sau.

Hai là, quyết toán dự án hoàn thành còn chậm, một số hồ sơ chưa đúng quy định, tỷ lệ nợ đọng còn ở mức cao: Công tác quyết toán dự án hoàn thành, có dự án


tiến hành còn chậm, chưa thực hiện đúng quy định. Số nợ đọng ngân sách đầu tư XDCB từ các nguồn ngân sách còn ở mức cao (113 tỷ năm 2015 và 39 tỷ năm 2020). Giá trị khối lượng hoàn thành chuyển giao năm sau thanh toán còn rất lớn, gây khó khăn trong công tác quản lý. Bên cạnh đó, giá cả vật tư, thiết bị biến động thường xuyên và tăng cao so với dự toán ban đầu, vượt ngoài tầm kiểm soát của chủ đầu tư và nhà thầu, gây khó khăn cho cả Quân chủng và đơn vị thi công. Vẫn còn tình trạng cán bộ quản lý chưa nhận thức đúng, đầy đủ về quyết toán ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản, còn chủ quan trong lập báo cáo quyết toán. Cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng của Nhà nước và Bộ Quốc phòng trong những năm gần đây thay đổi nhiều, trong khi đơn vị quản lý lại không kịp cập nhật, hiểu rõ để thực hiện.

Ba là, số lượng dự án, công trình đã hoàn thành, bàn giao đưa vào sử dụng nhưng chưa trình đề nghị phê duyệt quyết toán cao: Số lượng dự án, công trình chưa trình, thẩm định, phê duyệt quyết toán còn nhiều; một số chủ đầu tư chưa quan tâm đúng mức tới công tác quyết toán, thời gian tổng hợp trình phê duyệt quyết toán dự án hoàn thành chậm so với thời gian quy định; hoặc trình hồ sơ để đảm bảo thời gian nhưng hồ sơ còn thiếu và nhiều sai sót.

Hạn chế thứ sáu, trong kiểm tra, kiểm soát chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản bản ở Quân chủng Phòng không - Không quân

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 193 trang tài liệu này.

Một là, lập dự án đầu tư chưa chặt chẽ, dẫn đến việc phải cắt giảm so với đề nghị của đơn vị: Còn hiện tượng chỉ định thầu trọng lựa chọn nhà thầu tư vấn, lựa chọn đơn vị tư vấn không bảo đảm năng lực theo yêu cầu của dự án; không lập hồ sơ khảo sát; khảo sát, thiết kế không bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật của công trình; lập dự toán không đúng định mức, đơn giá; hồ sơ thiết kế chỉ định xuất xứ của hàng hóa, vật liệu. Dẫn đến việc thẩm định phê duyệt dự án đầu tư giai đoạn 2015-2020 phải cắt giảm đến 4,53% giá trị các đơn vị lập, thực tế cho thấy thất thoát lớn nhất có thể xuất hiện ngay trong giai đoạn lập dự án đầu tư, khảo sát, thiết kế; một số dự án được lập căn cứ vào các thông tin, thông số không chính xác: Các chỉ số về kinh tế, thị trường; các thông số về môi trường; các chỉ số kỹ thuật; các tiêu chuẩn kỹ thuật không phù hợp; Lựa chọn địa điểm đầu tư không hợp lý, theo ý chủ quan chưa tính đến các yếu


Quản lý chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản ở Quân chủng Phòng không - Không quân - 17

tố liên quan, chưa xem xét tất cả các phương án đầu tư có thể có để có sự lựa chọn tối ưu.

Hai là, Bộ máy kiểm tra, kiểm soát chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản ở Quân chủng còn hạn chế về số lượng và chất lượng, chồng chéo về chức năng nhiệm vụ: Do thiếu điều kiện về nhân lực và thiết bị phục vụ nên trong kiểm tra, kiểm soát chủ yếu dựa vào hồ sơ, tài liệu chứng từ liên quan đến các dự án, chưa đi sâu vào đánh giá chủ trương, hiệu quả đầu tư, chất lượng thiết kế, lập tổng dự toán, thẩm định thiết kế tổng dự toán, sử dụng vật tư, khối lượng thực tế thi công, chất lượng công trình, nên kết quả chỉ ở mức nhất định. Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng, cơ quan quản lý trong kiểm tra, kiểm soát còn thiếu chặt chẽ nên có hiện tượng trùng lặp, chồng chéo, gây khó khăn cho chủ đầu tư và nhà thầu. Trình độ cán bộ quản lý của cơ quan chức năng và ban quản lý dự án có nội dung còn hạn chế; Thiếu cơ quan kiểm soát nội bộ chuyên trách, đa số các cơ quan chức năng vừa đóng vai trò là cơ quan kiểm soát nội bộ, vừa đóng vai trò là chủ thể tham gia quản lý dự án đầu tư, nên tính độc lập trong hoạt động đầu tư và giám sát chưa cao. Mặt khác một số thành viên tham gia giám sát là kiêm nhiệm, không được đào tạo bàn bản, chuyên trách trong quản lý dự án đầu tư xây dựng cơ bản, nên chưa phát huy được vai trò trách nhiệm, chủ yếu dừng ở việc nghe báo cáo.

Ba là, một số đơn vị chủ đầu tư thực hiện kiến nghị của cơ quan kiểm tra, kiểm soát về chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản ở Quân chủng có nội dung còn hình thức: Qua kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành các quy định của pháp luật về quản lý chi đầu tư xây dựng cơ bản, các cơ quan chức năng của Quân chủng đã ban hành hoặc đề nghị ban hành nhiều kết luận, văn bản kiến nghị, xử lý tài chính, xử lý trách nhiệm, chỉ đạo tổ chức khắc phục nhưng việc thực hiện kiến nghị của các đoàn kiểm tra có nội dung còn hình thức, chưa nghiêm, sau kết luận của đoàn kiểm tra chỉ tổ chức rút kinh nghiệm chung, chưa làm rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân theo những nội dung kiến nghị của đoàn kiểm tra đó dẫn đến việc nhiều kiến nghị đã có từ năm được kiểm tra trước, nhưng năm sau vẫn lặp lại.


3.4.2.2. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong quản lý chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản ở Quân chủng Phòng không - Không quân

* Nguyên nhân khách quan

Một là, xây dựng là lĩnh vực đa dạng, phức tạp, yêu cầu kỹ thuật cao liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành. Quá trình triển khai thực hiện dự án đầu tư, đối với từng giai đoạn, từng nội dung chi phí phải tuân thủ theo nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật này thường xuyên thay đổi, có nội dung còn chồng chéo dẫn đến khó khăn trong quá trình thực hiện.

Hai là, hệ thống định mức xây dựng làm căn cứ lập dự toán chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản chưa đồng bộ, vừa thừa, vừa thiếu, đặc biệt là định mức trong xây dựng các công trình đặc thù ảnh hưởng đến tiến độ một số dự án, công trình xây dựng, nhất là một số công trình xây dựng chuyên ngành. Giá cả thị trường nguyên, nhiên vật liệu xây dựng như: xi măng, sắt thép, xăng dầu ở nhiều địa bàn đóng quân của Quân chủng có nhiều đơn giá khác nhau. Nhiều đơn giá, định mức máy móc thiết bị có từ nhiều năm trước, đến nay đã không còn phù hợp dẫn tới nhiều bất cập trong việc xác định định mức năng suất nhân công, không phù hợp với thực tiễn, đẩy giá công trình lên cao trong khi những công nghệ mới, máy móc hiện tại lại chưa có định mức. Việc sửa đổi bổ sung định mức có độ trễ so với thực tế, cơ chế chính sách của nhà nước có nhiều thay đổi, thậm chí vừa ban hành đã thay đổi nên quá trình quản lý chi phí xây dựng gặp nhiều khó khăn.

Ba là, Quân chủng đóng quân trên địa bàn rộng, phân tán, nhiều đơn vị đóng quân ở biên giới, hải đảo, loại hình công trình xây dựng cơ bản do Quân chủng quản lý đa dạng, nhiều loại công trình có quy mô lớn, triển khai thực hiện trong nhiều năm như công trình sân bay trong khi đơn giá, định mức dự toán luôn thay đổi, giá cả vật tư, hàng hóa, dịch vụ luôn biến động khó lường nên công tác lập dự toán chi ngân sách cho đầu tư xây dựng cơ bản ở Quân chủng khó sát đúng, phải điều chỉnh tổng mức đầu tư.

Bốn là, cơ chế, chính sách về thực hiện quản lý chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản có nội dung chưa phù hợp như quy định tỷ lệ tiết kiệm trong chỉ định thầu và tự thực hiện dẫn đến nhiều chủ đầu tư căn cứ áp


dụng sai văn bản của cấp trên, thực hiện chỉ định thầu không đúng quy định; Quy định phân cấp cho đơn vị dự toán cấp 1, 2 kiểm soát và thanh toán khối lượng hoàn thành, tuy nhiên công tác kiểm soát chỉ thực hiện trên hồ sơ, chứng từ dẫn đến việc chủ đầu tư cấu kết với nhà thầu và đơn vị tư vấn lập hồ sơ đề nghị thanh toán khi khối lượng xây dựng cơ bản hoàn thành chưa đầy đủ hoặc thiếu hồ sơ, thủ tục, từ đó một số dự án tiến hành thanh toán khối lượng và đề nghị quyết toán niên độ năm, nhưng qua kiểm tra, kiểm soát phải bổ sung thủ tục hoặc chuyển quyết toán sang năm sau.

Năm là, năng lực của các bên tham gia dự án đầu tư xây dựng cơ bản:

- Năng lực của nhà thầu: Việc lựa chọn nhà thầu chưa chặt chẽ, dẫn đến việc một số nhà thầu có năng lực về tài chính, nhân sự, thiết bị công nghệ thi công chưa phù hợp với dự án. Một số nhà thầu lợi dụng vào tính sơ sài của hợp đồng các điều khoản chưa chặt chẽ, cơ chế thưởng-phạt chưa rõ ràng, chưa quy định trách nhiệm việc chậm tiến độ hoặc không đảm bảo chất lượng dẫn đến việc triển khai thực hiện sơ sài, thiếu chuyên nghiệp, kéo dài thời gian thi công, sử dụng nhân công mùa vụ, chưa qua đào tạo, không đảm bảo tính chuyên nghiệp trong lao động, một số nhà thầu lúng túng trong công tác tạm ứng, nghiệm thu đề nghị thanh toán khối lượng hoàn thành, quyết toán dự án hoàn thành dẫn đến công trình đã thi công xong nhưng chậm tổng hợp thanh quyết toán ảnh hưởng đến công tác quản lý chi phí, tiến độ và thời gian của dự án. Cá biệt có nhà thầu uy tín, phẩm chất, đạo đức và kỹ năng nghề nghiệp không cao, thiếu trách nhiệm trong tổ chức thực hiện, thậm chí có biểu hiện t hi công sai bản vẽ thiết kế được duyệt.

- Năng lực, trách nhiệm của đơn vị tư vấn: Hoạt động xây dựng cơ bản nói chung và quản lý chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng là hoạt động chuyên môn, chuyên ngành đòi hỏi các chủ thể tham gia phải được trang bị kiến thức, kỹ năng trong công tác quản lý. Thực tế các chủ đầu tư trong Quân chủng Phòng không - Không quân là kiêm nhiệm, chủ yếu chuyên môn, nguyên ngành đào tạo liên quan đến công tác quân sự, quốc phòng nên cần thuê đơn vị tư vấn có chuyên môn để đảm bảo tiêu chuẩn, chất lượng công trình xây dựng. Tuy nhiên, một số đơn vị tư vấn chưa đầy đủ năng lực, trách nhiệm trong hoạt động


nghiệp vụ, không thực hiện hoặc thực hiện không nghiêm túc chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, việc xử lý sai phạm chưa kịp thời, thiếu kiên quyết, lợi dụng các điều khoản sơ sài của hợp đồng tư vấn, thiếu kiểm tra, giám sát các nhà thầu, kiểm tra, chấp thuận các vật liệu, thiết bị lắp đặt không đúng theo quy định của hợp đồng. Hơn nữa công tác thanh toán khối lượng hoàn thành được thực hiện trên cơ sở biên bản nghiệm thu khối lượng hoàn thành kèm theo đầy đủ các hồ sơ thủ tục đi cùng như: hợp đồng, các biên bản nghiệm thu giai đoạn, các biên bản lấy mẫu thí nghiệm, kết quả thí nghiệm và kết quả kiểm định chất lượng xây dựng, biểu tính giá trị khối lượng hoàn thành. Tính trung thực, khách quan, chính xác của những tài liệu này phụ thuộc nhiều vào đơn vị tư vấn, trong khi năng lực, trách nhiệm của một số đơn vị tư vấn chưa cao, dẫn đến việc ký biên bản nghiệm thu khối lượng, nghiệm thu dự án chưa kiểm tra kỹ hiện trạng và chất lượng công trình, do đó khối lượng nghiệm thu đề nghị thanh toán do tư vấn giám sát xác nhận có trường hợp không đúng với bản vẽ hoàn công mà theo khối lượng của đơn vị thẩm tra dẫn đến sai sót khối lượng theo dây chuyền.

* Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, năng lực dự báo, xây dựng kế hoạch đầu tư công, dự toán chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản của chủ đầu tư có phần còn hạn chế, dẫn đến quá trình xây dựng kế hoạch chưa đánh giá hết được các nhiệm vụ trong giai đoạn lập kế hoạch đầu tư công, đặc biệt là các nhiệm vụ đột xuất của Quân chủng, có trường hợp chỉ tập trung số lượng, chưa xây dựng được tiêu chí cụ thể ưu tiên trong phân bổ dự toán chi ngân sách, việc phân bổ chủ yếu mang tính chủ quan, cảm tính, từ đó một số dự án vẫn còn nặng về cơ chế xin-cho, chưa bao quát hết đặc điểm nhiệm vụ, tổ chức biên chế, trang bị của đơn vị dẫn đến công tác lập và phân bổ dự toán chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản còn phân tán, nhỏ lẻ, đầu tư dàn trải, ảnh hưởng đến hiệu quả chi ngân sách nhà nước. Việc công khai, dân chủ, minh bạch trong đầu tư xây dựng cơ bản chưa được thực hiện triệt để, chưa phát huy được vai trò giám sát cộng đồng trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản, việc tổ chức thông tin các hoạt động đầu tư còn mang tính hình thức.

Thứ hai, tổ chức bộ máy quản lý chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản ở Quân chủng còn rườm rà, thậm chí chồng chéo về chức năng nhiệm vụ,


dẫn đến việc vừa thừa, vừa thiếu, đội ngũ cán bộ quản lý đầu tư còn thường phải kiêm vai trò quản lý dự án đầu tư. Ban quản lý làm việc theo chế độ kiêm nhiệm, tính chuyên môn hóa và năng lực chưa cao, chưa được đào tạo bài bản về quản lý dự án. Trong quá trình quản lý, ban quản lý dự án không chủ động kiểm tra, rà soát hồ sơ nghiệm thu theo từng giai đoạn, dẫn đến việc dồn ứ hồ sơ vào cuối dự án, thiếu thủ tục pháp lý để thanh quyết toán với cơ quan có thẩm quyền. Mô hình tổ chức bộ máy và phân cấp quản lý chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản theo lĩnh vực ngành, theo từng loại hình công trình, từng lĩnh vực dẫn đến các thủ tục rườm rà, nhiều khâu nhiều bước, có sự chồng chéo về chức năng nhiệm vụ, phân cấp quản lý đầu tư có lúc chưa minh bạch, chưa rõ chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm, dẫn đến khó quy trách nhiệm cá nhân trong xử lý sai phạm.

Năng lực quản lý chủ đầu tư chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản trong tình hình hiện nay. Cán bộ lãnh đạo, chỉ huy cơ quan, đơn vị và cán bộ chuyên môn có nhiệm vụ chủ yếu là thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, trực sẵn sàng chiến đấu nên chưa có đầy đủ kiến thức, kinh nghiệm trong quản lý sử dụng chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản, đội ngũ cán bộ tham mưu cho chủ đầu tư chủ yếu là kiêm nhiệm, trình độ không đồng đều, vừa thực hiện chức năng của cơ quan quản lý, vừa tham gia ban quản lý dự án, dẫn đến hiện tường vừa đá bóng, vừa thổi còi, công tác quản lý dự án chưa cập nhật thường xuyên chế độ, chính sách; chưa xây dựng phương pháp, quy trình làm việc phù hợp với thời đại công nghệ 4.0, thiết bị xây dựng và trình độ tổ chức, quản lý của các nhà thầu ngày càng hiện đại, tiên tiến. Việc tổ chức tập huấn, phổ biến các chế độ, chính sách về quản lý chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng, quản lý công tác đấu thầu chưa được thường xuyên tổ chức để giúp cho đội ngũ cán bộ, nhân viên làm công tác quản lý tài chính, quản lý dự án đầu tư để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nhận thức và nắm bắt được những thông tin mới trong lĩnh vực đầu tư xây dựng.

Thứ ba, mức độ tuân thủ luật pháp của các bên liên quan: Một số chủ đầu tư chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm trong quản lý chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản dẫn đến việc đấu thầu chưa chặt chẽ, lựa chọn nhà thầu chưa phù hợp với quy mô, tính chất và đặc điểm của dự án để một số nhà thầu lợi dụng vào


tính sơ sài của hợp đồng, triển khai thực hiện dự án sơ sài, thiếu chuyên nghiệp, kéo dài thời gian thi công, sử dụng nhân công mùa vụ, chưa qua đào tạo, không đảm bảo tính chuyên nghiệp trong lao động.

Thứ tư, cơ quan kiểm tra, kiểm soát quy trình quản lý chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản ở Quân chủng PK-KQ có vai trò đặc biệt đối với kết quả chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản. Để hoạt động kiểm tra, kiểm soát thật sự hiệu quả, các cơ quan có thẩm quyền của Quân chủng cần tham gia kiểm soát ngay từ khâu lập kế hoạch đầu tư công. Trong những năm qua, công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ đã được Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân chủng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, hoạt động quản lý chi NSNN cho đầu tư xây dựng cơ bản chịu phạm vi kiểm tra, kiểm soát nội bộ tuy nhiên hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ vẫn chưa thật sự phát huy được hiệu lực, hiệu quả xuất phát từ việc chưa thành lập đơn vị giám sát độc lập của Quân chủng theo từng dự án, dẫn đến việc một cơ quan cùng tham gia giám sát, cùng tổ chức thực hiện, số lượng dự án được kiểm tra, kiểm soát nội bộ chưa nhiều, trong khi trình độ năng lực kiểm tra kiểm soát không đồng đều, nhiều năm không phát hiện được sai phạm và kiến nghị xử lý tài chính, kết luận kiểm tra chưa phát hiện được nhiều sai phạm từ khâu từ giai đoạn quyết định đầu tư đến bàn giao đưa vào sử dụng, chưa có hình thức xử lý kỷ nghiêm luật cán bộ làm sai, mới chỉ dừng ở mức độ kiểm điểm rút kinh nghiệm. Các cơ quan tham gia chức năng kiểm tra, kiểm soát công tác chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản đồng thời cũng tham gia ban quản lý dự án, dẫn đến hiện tượng chồng chéo về chức năng nhiệm vụ, “vừa đá bóng vừa thổi còi”, từ đó giảm sút hiệu lực công tác kiểm tra, kiểm soát.

Thứ năm, việc áp dụng khoa học công nghệ trong quản lý chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản ở Quân chủng còn hạn chế: Hiện nay việc ứng dụng công nghệ thông tin quản lý các dự án xây dựng cơ bản tại Quân chủng Phòng không - Không quân còn hạn chế, mặc dù nhiều dự án có quy mô lớn, tính chất phức tạp, yêu cầu quản lý cao, nhưng các chủ đầu tư, ban quản lý dự án chưa ứng dụng các phầm mềm quản lý dự án. Quản lý chất lượng, tiến độ, kiểm tra, rà soát định mức, giá cả….từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến việc cung cấp thông tin phục vụ công tác quản lý, ban hành các quyết định nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý dự án xây dựng cơ bản.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 23/02/2023