- Xác định cơ sở lí luận về quản lí hoạt động TVHN trong các trường THPT;
- Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lí hoạt động TVHN trong các trường THPT ở miền Đông Nam Bộ;
- Đề xuất một số biện pháp quản lí hoạt động TVHN trong các trường THPT ở miền Đông Nam Bộ.
4. Câu hỏi nghiên cứu
Luận án tập trung vào giải quyết các câu hỏi nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu hoạt động TVHN và quản lí hoạt động TVHN được dựa trên nền tảng lí thuyết nào?
- Thực trạng hoạt động TVHN và quản lí hoạt động TVHN trong các trường THPT ở miền Đông Nam Bộ hiện nay như thế nào?
- Những yếu tố cơ bản/chính nào ảnh hưởng đến quản lí hoạt động TVHN trong các trường THPT ở miền Đông Nam Bộ?
- Vì sao kết quả quản lí hoạt động TVHN trong các trường THPT ở miền Đông Nam Bộ còn yếu?
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lí hoạt động tư vấn hướng nghiệp cho học sinh trường trung học phổ thông ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ - 1
- Quản lí hoạt động tư vấn hướng nghiệp cho học sinh trường trung học phổ thông ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ - 2
- Hoạt Động Tư Vấn Hướng Nghiệp Ở Trường Trung Học Phổ Thông
- Quản Lí Hoạt Động Tvhn Ở Trường Thpt
- Khái Niệm Tư Vấn Hướng Nghiệp Ở Trường Trung Học Phổ Thông
Xem toàn bộ 265 trang tài liệu này.
- Những biện pháp quản lí hoạt động TVHN nào cần thực hiện để nâng cao chất lượng hoạt động TVHN trong các trường THPT ở miền Đông Nam Bộ?
5. Giả thuyết khoa học
Hoạt động TVHN trong các trường THPT ở miền Đông Nam Bộ đã đạt được một số kết quả khả quan, tuy nhiên vẫn tồn tại những hạn chế như chưa xác định được nhu cầu TVHN của HS, năng lực TVHN của đội ngũ tư vấn còn yếu. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, trong đó, nguyên nhân cơ bản là do thực hiện quản lí hoạt động TVHN còn yếu. Nếu áp dụng các biện pháp quản lí theo chức năng quản lí và phù hợp với những điểm đặc thù của hoạt động TVHN thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lí hoạt động TVHN cho HS THPT tại các tỉnh miền Đông Nam Bộ.
6. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Công tác quản lí hoạt động TVHN cho HS THPT.
- Đối tượng nghiên cứu: Quản lí hoạt động TVHN trong các trường THPT ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ.
7. Giới hạn nghiên cứu
- Về địa bàn nghiên cứu: Luận án này chỉ tập trung nghiên cứu 20 trường ở 03 tỉnh, trong đó:
+ Bà Rịa - Vũng Tàu gồm 06 trường là: THPT Châu Thành, THPT Nguyễn Trãi, THPT Nguyễn Văn Cừ, THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm, THPT Ngô Quyền, THPT Phú Mỹ;
+ Bình Dương gồm 04 trường: THPT Võ Minh Đức, THPT Bình An, THPT Bình Phú, THPT Phan Bội Châu;
+ Đồng Nai gồm 10 trường: THPT Thanh Bình, THPT Ngọc Lâm, THPT Chu Văn An, THPT Xuân Lộc, THPT Đắc Lua, THPT Nguyễn Đình Chiểu, THPT Nhơn Trạch, THPT Phước Thiền, THPT Tôn Đức Thắng và THPT Vĩnh Cửu.
- Về đối tượng nghiên cứu: Có nhiều cấp cùng tham gia quản lí hoạt động TVHN cho HS THPT, đề tài tập trung nghiên cứu quản lí của Hiệu trưởng trong mối tương tác phân cấp quản lí đối với TVHN ở các trường THPT.
- Về đối tượng khảo sát: Khảo sát 2863 người ở 20 trường THPT công lập, trong đó:35 Cán bộ quản lí (CBQL), 462 GV và 2366 HS.
- Về thời gian điều tra, thực nghiệm
+ Thời gian điều tra thực trạng: Từ tháng 09 năm 2016 đến tháng 4 năm 2017.
+ Thời gian thực nghiệm: Từ tháng 09 năm 2017 đến tháng 2 năm 2018.
8. Các cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
8.1. Cách tiếp cận
- Tiếp cận theo chức năng quản lí: Về căn bản có bốn chức năng chính mà các nhà quản lí phải thực hiện. Đó là các công việc lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, và kiểm tra; và chúng có thể được dùng như là một cách phân loại cơ bản về kiến thức quản lí. Bản chất của quản lí là phối hợp các nỗ lực của con người thông qua bốn chức năng nói trên để đạt các mục tiêu đề ra. Nói một cách khác, các chức năng quản
lí là bộ khung để tổ chức các kiến thức quản lí trong nó. Với tinh thần đó, luận án sẽ nghiên cứu việc quản lí hoạt động TVHN bằng cách tiếp cận bốn chức năng chủ yếu này.
- Tiếp cận theo lí thuyết hoạt động: Việc nghiên cứu quản lí TVHN cho HS THPT được thực hiện theo nguyên tắc thông qua hoạt động và bằng hoạt động. Trong quá trình nghiên cứu, cần tập trung vào các hoạt động TVHN của GV ở THPT, hoạt động tự nhận thức và đánh giá bản thân của HS, quá trình lựa chọn nghề của HS, các hoạt động quản lí hoạt động TVHN của hiệu trưởng liên quan đến giáo viên chủ nhiệm (GVCN), giáo viên bộ môn (GVBM) và cán bộ Đoàn thanh niên (CBĐTN) ở THPT.
- Tiếp cận theo hệ thống - cấu trúc: Bản thân hoạt động GDHN là một hệ thống cấu trúc trọn vẹn được thực hiện thông qua nhiều con đường khác nhau, trong đó TVHN là một khâu trong GDHN chứ không phải là một hoạt động độc lập. Do đó, khi nghiên cứu quản lí hoạt động TVHN cần phải đặt trong mối quan hệ thống nhất giữa GDHN, TVHN và quản lí hoạt động TVHN phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện thực tế trong các trường THPT ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
- Tiếp cận theo lịch sử- logic: Hoạt động TVHN của nước ta đã có từ lâu. Nó chịu sự tác động và ảnh hưởng bởi những yếu tố nhất định trong quá trình lịch sử xã hội Việt Nam, đôi khi rất được chú trọng nhưng cũng có lúc bị thờ ơ. Vì thế, khi nghiên cứu cần chú ý về các giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội và giáo dục. Để đề xuất các biện pháp có tính khả thi và thực sự cần thiết.
8.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lí luận
Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp phân tích- tổng hợp và phương pháp hệ thống hóa từ các tài liệu, văn bản, luận án tiến sĩ về GDHN và quản lí giáo dục, TVHN và quản lí hoạt động TVHN cho HS THPT trong và ngoài nước để xác định cơ sở lí luận về quản lí hoạt động TVHN trong các trường THPT.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Tiến hành điều tra bằng bảng hỏi cho CBQL và GV khi xác định thực trạng. Tiến hành điều tra bằng bảng hỏi cho HS khi xác định thực trạng hoạt động
TVHN tại trường THPT.
Mục đích: Điều tra bằng bảng hỏi nhằm xác định thực trạng hoạt động TVHN và quản lí hoạt động TVHN cho HS lớp 12 ở trường THPT thuộc 03 tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương và Đồng Nai.
Đối tượng: 2863 người ở 20 trường THPT công lập, bao gồm: Khảo sát 2863 người ở 20 trường THPT công lập, trong đó: 35 CBQL, 462 GV và 2366 HS.
Nội dung: Đối với CBQL và GV (gồm GVCN, GVBM, CBĐTN), trưng cầu ý kiến về thực trạng hoạt động TVHN và quản lí hoạt động TVHN. Đối với HS, trưng cầu ý kiến về thực trạng hoạt động TVHN.
- Phương pháp phỏng vấn
Mục đích: Nhằm làm rõ hơn những thông tin thu được về hoạt động TVHN ở THPT và các vấn đề khác từ thực tiễn được minh họa bằng lời phát biểu, lời nói của CBQL, GV và HS THPT.
Đối tượng phỏng vấn: 10 CBQL, 15 GV và với 44 HS (04 HS/nhóm thuộc THPT), những đối tượng này được chọn từ trong 2863 người.
Nội dung phỏng vấn: Trò chuyện với CBQL và GVCN nhằm thu thập thêm thông tin về thực trạng hoạt động TVHN cũng như thực trạng, nguyên nhân và biện pháp quản lí hoạt động TVHN. Tìm hiểu, nói chuyện với HS về thực trạng hoạt động TVHN trong nhà trường hiện nay.
- Phương pháp thực nghiệm
Tiến hành thực nghiệm nhằm đánh giá tính hiệu quả của hai biện pháp quản lí hoạt động TVHN tại một trường THPT. Các nhóm đối chứng và thực nghiệm được chọn có sự tương đương nhau.
- Phương pháp chuyên gia
Phương pháp chuyên gia được sử dụng để khảo nghiệm tính cần thiết và khả thi của các biện pháp đã đề xuất trong đề tài.
- Đối tượng khảo nghiệm: 30 CBQL và GV cốt cán của 20 trường THPT miền Đông Nam Bộ.
- Nội dung khảo nghiệm: Khảo nghiệm tính cần thiết và khả thi của các biện pháp quản lí hoạt động TVHN trong các trường THPT miền Đông Nam Bộ.
Bên cạnh đó, phương pháp này còn được dùng khi trao đổi với 2 phó hiệu
trưởng và 4 tổ trưởng tổ chuyên môn về lợi ích từ xác định nhu cầu TVHN của HS.
- Phương pháp hỗ trợ
Phương pháp thống kê toán học, phần mềm SPSS for Win, phiên bản 20 để xử lí các số liệu thu được trong điều tra bằng bảng hỏi và thực nghiệm.
9. Những luận điểm bảo vệ
- Quản lí hoạt động TVHN ở trường phổ thông là một quá trình và được thực hiện theo 4 chức năng của quản lí giáo dục: chức năng kế hoạch, chức năng tổ chức, chức năng chỉ đạo và chức năng kiểm tra, đánh giá. Bên cạnh đó, hoạt động này có sự tác động của chủ thể quản lí đến đối tượng bị quản lí thông qua các công cụ quản lí trong phạm vi nhà trường.
- Hoạt động TVHN ở trường phổ thông trong các tỉnh miền Đông Nam Bộ đã đạt được những kết quả nhất định nhưng hiệu quả và chất lượng còn hạn chế. Hiệu quả và chất lượng hoạt động TVHN được nâng cao khi:
+ Hiệu trưởng thực hiện đầy đủ và hoàn thành 4 chức năng quản lí hoạt động TVHN ở trường THPT;
+ GVCN, GVBM, CBĐTN có năng lực về TVHN;
+ Có sự chỉ đạo sâu sát từ chủ thể quản lí (Hiệu trưởng) đến đối tượng bị quản lí (GVCN, GVBM, CBĐTN) và đối tượng được TVHN (HS).
10. Đóng góp mới của luận án
10.1. Về lí luận
- Tổng hợp và hệ thống hóa lí luận về hoạt động TVHN và quản lí hoạt động TVHN. Trong đó, làm rõ các khái niệm như tư vấn, hướng nghiệp, TVHN, TVHN ở trường THPT, hoạt động TVHN ở trường THPT, quản lí, quản lí hoạt động TVHN ở trường phổ thông. Đồng thời mô tả chi tiết mục đích và nhiệm vụ, nội dung, phương pháp, hình thức, kiểm tra và đánh giá, điều kiện thực hiện hoạt động TVHN. Trình bày rõ ràng về tầm quan trọng, bốn chức năng quản lí (lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, chỉ đạo thực hiện và kiểm tra, đánh giá) và các yếu tố ảnh hưởng đến quản lí hoạt động TVHN cho HS ở trường THPT.
- Vận dụng lí luận về bốn chức năng quản lí giáo dục cơ bản trong quản lí hoạt động TVHN cho HS trong trường THPT.
10.2. Về thực tiễn
- Khảo sát và đánh giá thực trạng TVHN, quản lí hoạt động TVHN trong 20 trường THPT ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ.
- Xác định được hạn chế và bất cập về TVHN và quản lí hoạt động TVHN trong 20 trường THPT ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Từ đó, phân tích và tìm ra những nguyên nhân cơ bản dẫn đến các hạn chế và bất cập này.
- Đề xuất 04 biện pháp quản lí hoạt động TVHN nhằm giải quyết những hạn chế và bất cập trong quản lí hoạt động TVHN cho HS THPT ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ.
11. Cấu trúc luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo và các phụ lục, nội dung chính của luận án được trình bày trong ba chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận về quản lí hoạt động tư vấn hướng nghiệp trong trường trung học phổ thông.
Chương 2. Thực trạng quản lí hoạt động tư vấn hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông ở miền Đông Nam Bộ.
Chương 3. Đề xuất một số biện pháp quản lí hoạt động tư vấn hướng nghiệp trong trường trung học phổ thông ở miền Đông Nam Bộ.
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN HƯỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài
1.1.1.1. Hoạt động tư vấn hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông
Giữa thế kỉ XIX, nhu cầu hướng nghiệp, đặc biệt là tư vấn, tuyển chọn nghề nghiệp xuất hiện từ chính sự đòi hỏi của cuộc sống, khi nền sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng phát triển. Các nhà Tâm lí học làm việc trong các doanh nghiệp khi nghiên cứu sự thích ứng của người công nhân đối với công việc đã đi đến kết luận rằng, để con người có thể làm tốt một công việc cụ thể, không chỉ phụ thuộc vào việc tổ chức dạy nghề như thế nào mà còn phụ thuộc vào người đó có những năng lực phù hợp với nghề hay không. Từ phát hiện này, các nhà tâm lí học đề xuất đối với các nhà tuyển dụng rằng trước khi nhận một ai đó vào một vị trí lao động cần phải tìm hiểu người ấy có những năng lực phù hợp hay không, sau đó mới tiến hành đào tạo.
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, TVHN thực sự trở thành một lĩnh vực khoa học độc lập với những công trình nghiên cứu lí thuyết điển hình của các nhà tâm lí học tư vấn Davis (1907), Parsons (1909), Keller và Viteles (1937), Kettell (1880), Gallton (1883)…
Năm 1907, Davis đã xây dựng cơ sở đào tạo đầu tiên về công tác hướng dẫn nghề tại Michigan. Tuy nhiên, TVHN, chọn nghề thật sự lớn mạnh kể từ khi Frank Parsons, người mà sau này được coi là “cha đẻ của hướng nghiệp”, thành lập “Văn phòng TVHN” ở Boston năm 1908, (Boston’s Vocational Bureau) và xuất bản sách “Chọn nghề” (Choosing a Vocation) vào năm 1909. Parsons cho rằng công tác hướng nghiệp phải được thể hiện trong 3 quá trình sau: 1) Sự thấu hiểu một cách rõ ràng về bản thân, về khả năng, sở thích, hoài bão, nguồn lực cũng như những hạn chế của bạn đối với nghề; động lực thúc đẩy bạn chọn nghề; 2) Kiến thức về những yêu cầu, điều kiện của thành công, những thuận lợi và khó khăn; sự đền bù; những cơ hội và những triển vọng phát triển trong các giới hạn khác nhau của công việc; 3) Hiểu biết về mối
liên hệ giữa đặc điểm cá nhân của bản thân và yêu cầu của công việc cụ thể.
Không phải là lí thuyết đầu tiên về TVHN, nhưng lí thuyết có sức tồn tại lâu bền nhất và được sử dụng nhiều nhất hiện nay chính là lí thuyết của Holland. Theo Holland (1986), lựa chọn nghề của cá nhân là một sự thể hiện tính cách trong thế giới nghề của cá nhân đó, đặc điểm nhân cách của một con người cần phải được xem xét trong sự thống nhất với môi trường nghề nghiệp. Mục đích chính của TVHN và cũng chính là việc của các nhà tư vấn nghề là kết hợp giữa các kiểu loại nhân cách với những đặc điểm môi trường công việc. Xuất phát từ lí thuyết của Holland, một thang tự đo trong định hướng nghề nghiệp có tên là Self-Directed Search (SDS)- Tự tìm kiếm nghề nghiệp- đã được xây dựng. Tuy nhiên, thang SDS chỉ đo được sở thích, hứng thú, mà không đo được năng lực thực tế của mỗi người. Người làm test này sẽ tự kiểm tra xem mình thích hoặc không thích gì (Walsh & Osipow, 1986, p.55-82).
Năm 1937, trong tác phẩm Vocational guidance throughout the world, Keller và Viteles cung cấp một tầm nhìn toàn cầu về tư vấn và hướng nghiệp. Họ đã khảo sát so sánh các quốc gia châu Âu, châu Á và châu Phi. Suốt thế kỉ XX và đầu thập kỉ thế kỉ XXI, tư vấn và hướng nghiệp phát triển mạnh mẽ trong môi trường giáo dục, đặc biệt là cấp tiểu học và trung học. HS đã được định hướng nghề ngay từ lúc từ 15 tuổi cho đến 18 tuổi, bởi Keller và Viteles cho rằng thế giới nghề nghiệp rất đa dạng, thanh thiếu niên cần ý thức ngay từ nhỏ sự lựa chọn nghề tối ưu của họ dựa trên sở thích, năng lực, môi trường cuộc sống.
Lịch sử cho thấy, các nhà Tâm lí học là những chuyên gia trước tiên quan tâm tới việc xây dựng hệ thống cơ sở lí luận cũng như những phương pháp hướng nghiệp: Năm 1880, nhà Tâm lí học Mĩ, Kettell là người đầu tiên đề nghị đưa phương pháp Test (Trắc nghiệm tâm lí) vào công tác tuyển chọn nghề thì năm 1883, nhà Tâm lí học Anh, Gallton lần đầu tiên sử dụng Test để chẩn đoán nhân cách nhằm mục đích tư vấn nghề nghiệp. Năm 1895, Galton cùng với nhà Tâm lí học Pháp Binet đã thành lập Sở tư vấn nghề nghiệp đầu tiên tại Pháp. Đến đầu thế kỉ XX các cơ sở dịch vụ tư vấn, hướng nghiệp lần lượt ra đời ở Mĩ, Anh, CHLB Đức… Như vậy, ngay từ khi ngành hướng nghiệp ra đời, một nội dung quan trọng của nó đó là hoạt động tư vấn, tuyển chọn nghề.