Thực Trạng Hoạt Động Gdhn Cho Học Sinh Các Trường Thpt Tại Thành Phố Vĩnh Long


nhiều đến công tác GDHN vì cho rằng việc hướng nghiệp là việc cần phải thực hiện để giúp học sinh chọn nghề phù hợp với năng lực, sức khỏe, sở trường, hoàn cảnh kinh tế gia đình, hạn chế việc chọn sai nghề, học nữa chừng rồi bỏ hoặc khi ra trường bỏ nghề, chuyển nghề khác…., Một số ít giáo viên (14%) còn xem công tác GDHN trong thời gian qua là không quan trọng vì GDHN chỉ giúp học sinh được cộng điểm tốt nghiệp THPT hoặc không có hoạt động GDHN, học sinh vẫn có thể lựa chọn nghề nghiệp từ các nguồn hỗ trợ khác hay cho rằng môn hướng nghiệp trong nhà trường đem vào chỉ tốn thời gian vô ích, không có các em vẫn chọn được nghề bình thường (4%).

Nhìn chung, bảng số liệu chứng tỏ không có sự khác biệt về nhận thức giữa CBQL và giáo viên. Bên cạnh, một số CBQL và giáo viên đã nhận thức được tầm quan trọng của GDHN, vẫn còn một số ít CBQL và giáo viên chưa hiểu hết tầm quan trọng của hoạt động GDHN đối với học sinh.

2.3.2. Thực trạng hoạt động GDHN cho học sinh các trường THPT tại thành phố Vĩnh Long‌

* Công tác xây dựng kế hoạch hoạt động GDHN

Công tác xây dựng kế hoạch của giáo viên là một khâu quan trọng trong việc chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cho việc giảng dạy môn GDHN được tốt nhất. Khi xây dựng kế hoạch giảng dạy, giáo viên phải dựa trên chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo và kết quả nghiên cứu tham khảo một số tài liệu liên quan GDHN để xây dựng kế hoạch tốt nhất. Tuy nhiên qua khảo sát, 150 giáo viên ở 05 trường THPT trên địa bàn Thành phố Vĩnh Long đã chưa quan tâm đúng mức công tác này.

Bảng 2.3. Xây dựng kế hoạch hoạt động của giáo viên về GDHN


TT

Nội dung

Tần số

Tỷ lệ (%)

1

Nghiên cứu chương trình của Bộ GD-ĐT

137

91

2

Tham khảo một số tài liệu liên quan

109

73

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.

Quản lí hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh các trường trung học phổ thông tại thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long - 8


Kết quả khảo sát đã ghi nhận được hầu hết giáo viên các trường THPT thành phố Vĩnh Long khi xây dựng kế hoạch hoạt động về GDHN đều có nghiên cứu chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo (BGD-ĐT) (91%), có tham khảo một số tài liệu liên quan (73%). Tuy nhiên, mức độ thực hiện nghiên cứu vẫn còn một tỷ lệ nhất định giáo viên chưa nghiên cứu đầy đủ chương trình của BGD-ĐT (9%) hoặc không tham khảo một số tài liệu liên quan để hoạt động GDHN thêm phong phú, đa dạng (27%). Điều này cho thấy trong xây dựng kế hoạch hoạt động GDHN còn một số giáo viên chưa quan tâm đúng mức.

* Công tác tổ chức hoạt động, phương pháp, hình thức và chương trình GDHN cho học sinh

Đâu là khâu quan trọng quyết định thành công hay thất bại của công tác GDHN. Qua khảo sát 150 Giáo viên ở 05 trường THPT trên địa bàn thành phố Vĩnh Long, tác giả nhận thấy việc tổ chức các hoạt động GDHN hiện nay đã được các trường thực hiện thực hiện cơ bản theo hướng dẫn của Sở GDĐT. Các trường đều có chia hoạt động cụ thể ở học kỳ 1 và học kỳ 2. Sau học kỳ 1, ban giám hiệu có sơ kết, chỉ đạo các tổ chuyên môn đánh giá, xếp loại giáo viên, các tổ theo quy định, rút kinh nghiệm và bổ sung kế hoạch hoạt động cho thời gian tới.

Công tác tổ chức hoạt động ở học kỳ 1 rất quan trọng, từ tổ chức, cách thức hoạt động và sơ kết đánh giá.

Bảng 2.4. Quản lý tổ chức hoạt động của giáo viên ở học kỳ 1


TT

Nội dung

Tần số

Tỷ lệ (%)

1

Lập kế hoạch cá nhân từng giáo viên

128

85

2

Soạn giáo án môn học GDHN

133

89

3

Lập kế hoạch giảng dạy môn GDHN theo tuần

96

64

4

Giảng dạy theo kế hoạch

112

75


Kết quả cho thấy ở học kỳ 1, giáo viên các trường đã lập kế hoạch cá nhân từng giáo viên năm học (đạt 85%), soạn giáo án giảng dạy GDHN (89%) cho thấy đa số giáo viên đã quan tâm soạn giáo án cụ thể để giảng dạy cho học sinh học GDHN. Tuy nhiên, công tác lập kế hoạch giảng dạy môn GDHN theo tuần còn thấp (64%) biểu hiện tình trạng thiếu quan tâm, chỉ tập trung vào giáo dục các môn văn hóa là cơ bản hay chỉ việc giáo dục đạo đức cho học sinh, còn kế hoạch GDHN chỉ lập thành một mục trong kế hoạch chung cho cả năm học hay chỉ lập kế hoạch cá nhân theo yêu cầu nhà trường mà không quan tâm đến việc cụ thể hóa kế hoạch đó. Chính vì vậy việc tổ chức giảng dạy theo kế hoạch (chỉ đạt 75%). Điều này cho thấy ở học kỳ 1 còn một số giáo viên các trường còn lơ là, chưa thực hiện đầy đủ việc lập kế hoạch và triển khai tốt hơn ở học kỳ 2.

Học kỳ 2 là học kỳ quyết định kết quả cuối cùng của học sinh cũng như ghi nhận, nhận xét đánh giá và tổng kết hoạt động GDHN ở nhà trường. Các nội dung tổ chức hoạt động ở học kỳ 2 thể hiện sự quan tâm từ việc tập trung giảng dạy để đạt kế hoạch chương trình, từ việc tổ chức hoạt động ngoại khóa đến việc khảo sát nguyện vọng, sở thích,… của học sinh để định hướng GDHN đúng mức.

Bảng 2.5. Quản lý tổ chức hoạt động của giáo viên ở học kỳ 2


TT

Nội dung

Tần số

Tỷ lệ (%)

1

Giảng dạy theo kế hoạch của học kỳ 2

136

91


2

Lập phiếu khảo sát học sinh theo nguyện vọng, sở thích, ước mơ,…


124


83

3

Đánh giá mức độ, hiệu quả

101

67

4

Tổng kết môn học

94

63

Kết quả cho thấy ở học kỳ 2, giáo viên các trường đã giảng dạy theo kế hoạch của học kỳ 2 có nâng cao (đạt 91%). Bên cạnh đó, hầu như các


trường đều tổ chức kiểm tra đánh giá mức độ, hiệu quả (đạt 67%) từ kết quả khảo sát học sinh theo nguyện vọng, sở thích, ước mơ,…(83%), tuy nhiên việc tổng kết môn học GDHN (63%) cho thấy các trường có thực hiện việc đánh giá học sinh ở việc kiểm tra kiến thức mà chưa quan tâm đến việc tổ chức tổng kết riêng GDHN mà còn chung với tổng kết năm học và còn một số giáo viên chưa khảo sát học sinh theo nguyện vọng, sở thích, ước mơ,… của học sinh (tỷ lệ còn 17%). Đây là điều mà các trường cần phải quan tâm để việc GDHN đi vào chiều sâu và đánh giá mức độ, hiệu quả thích đáng của hoạt động GDHN.

Từ thực trạng xây dựng kế hoạch, tổ chức giảng dạy và đánh giá mức độ, hiệu quả môn GDHN trên cho thấy, còn một vài trường chưa quan tâm đúng mức, chưa coi trọng tầm quan trọng của GDHN, dẫn đến một số giáo viên trường không xây dựng kế hoạch cụ thể thực hiện công tác GDHN thể hiện: chưa xây dựng được kế hoạch hoạt động GDHN còn chung kế hoạch giáo dục trường; cán bộ không được thực hiện công tác kiểm tra đánh giá liên tục hàng năm, không có sự tổng kết hiệu quả của công tác GDHN trong nhà trường. Đây là kết quả dẫn đến một số hạn chế nhất định thời gian qua trong công tác GDHN ở các trường THPT thành phố Vĩnh Long.

* Đánh giá về mức độ đạt mục tiêu GDHN tại nhà trường

Hiệu quả GDHN ở nhà trường được thể hiện qua mức độ hoàn thành các mục tiêu GDHN và mức độ tiếp thu kiến thức, sự hiểu biết sâu rộng về thế giới quan, kỹ năng của học sinh đối với việc lựa chọn nghề cũng như thái độ đúng đắn khi học sinh quyết định lựa chọn nghề nghiệp ở tương lai cho bản thân.


Bảng 2.6. Mức độ đạt mục tiêu GDHN tại nhà trường



T T


Nội dung mục tiêu

Giáo viên đánh giá mức

độ đạt được mục tiêu GDHN (tỷ lệ %)

CBQL đánh giá mức độ

đạt được mục tiêu GDHN (tỷ lệ %)

T

K

TB

Y

TB

T

K

TB

Y

TB


Kiến thức:












Học sinh hiểu được ý












nghĩa tầm quan trọng












của việc học môn

16,7

69,3

10,0

4,0

2.01

16,7

45,0

31,7

6,7

2.28


GDHN.











1

Học sinh biết được một số thông tin cơ












bản về phát triển KT-












XH; về thế giới nghề












nghiệp, thị trường lao

động, hệ thống GD

51,0

13,3

30,7

4.7

1.89

15,0

45,0

35,0

5,0

2.30


nghề, CĐ, ĐH.












Kỹ năng:












Học sinh tự đánh giá












năng lực bản thân và điều kiện gia đình.

22,0

68,7

4,0

5,3

1.93

21,7

46,7

13,3

18,3

2.28


Học sinh tìm kiếm











2

được thông tin về ngành, nghề, thị

trường lao động, cơ sở


13,3


64,7


16,7


5,3


2.14


15,0


46,7


35,0


3,3


2.27


đào tạo.












Học sinh định hướng












và lựa chọn được nghề nghiệp trong tương lai.


19,3


64,0


12,7


4,0

2.01


16,7


43,3


35,0

5,0


2.28


Thái độ:












Học sinh chủ động tự












3

tin trong việc chọn nghề phù hợp.

20,7

44,7

30,3

4,7

2.19

23,3

46,7

11,7

18,3

2.25


Học sinh có hứng thú












và hướng chọn nghề

đúng đắn.

16,7

33,3

40,7

9,3

2.43

8,3

56,7

28,3

6,7

2.33


Số liệu của bảng điều tra cho thấy đánh giá của cán bộ quản lý và giáo viên đối với mức độ đạt mục tiêu GDHN ở nhà trường có sự chênh lệch nhưng không quá nhiều. Hầu hết CBQL và giáo viên đánh giá mức độ đạt mục tiêu GDHN với điểm trung bình ở mức đạt khá, chưa đạt được mức tốt nhất.

Phần lớn CBQL đánh giá mức độ đạt được mục tiêu GDHN ở mức độ chưa cao, điểm trung bình (lớn hơn 2.2) từ nội dung kiến thức, kỹ năng và thái độ. Trong khi đó, giáo viên đánh giá mức độ đạt mục tiêu GDHN so với CBQL có cao hơn một ít, trong đó có 02 nội dung về kỹ năng đạt khá tốt (trung bình thấp hơn 2.0) cụ thể nội dung học sinh biết được một số thông tin cơ bản về phát triển KT-XH, về thế giới nghề nghiệp, thị trường lao động, hệ thống giáo dục nghề, CĐ, ĐH (trung bình 1.89) và nội dung học sinh tự đánh giá năng lực bản thân và điều kiện gia đình (trung bình 1.93). Cho thấy, cách đánh giá của cán bộ quản lý có phần nghiêm khắc hơn so với giáo viên. Tuy nhiên, nội dung về thái độ học sinh có hứng thú và hướng chọn nghề đúng đắn, cán bộ quản lý đánh giá mức độ đạt mục tiêu (trung bình 2.33) cao hơn so với đánh giả của Giáo viên (trung bình 2.43) nhưng điểm trung bình ở nội dung này chưa cao. Điều này cho thấy thái độ chủ động tự tin trong việc chọn nghề phù hợp, có hứng thú và hướng chọn nghề đúng đắn là chưa đạt được mục tiêu cao nhất.

2.3.3.Nhận thức của giáo viên về chủ thể và thời điểm thích hợp GDHN tại nhà trường‌

- Chủ thể thích hợp nhất với việc GDHN cho học sinh trong nhà trường THPT thể hiện như sau


Bảng 2.7. Số liệu giáo viên chọn chủ thể thích hợp nhất với việc GDHN


TT

Chủ thể thích hợp

Tần số

Tỷ lệ (%)

1

Giáo viên phụ trách GDHN

122

81

2

Hiệu trưởng

99

66

3

Giáo viên chủ nhiệm lớp

95

63

4

Cán bộ đoàn trường

62

41

5

Phó hiệu trưởng

46

31

Qua khảo sát, chủ thể thích hợp nhất với việc GDHN cho học sinh trong nhà trường, đa số giáo viên đã chọn giáo viên phụ trách GDHN (122/150 lựa chọn), tỷ lệ 81%.

Như vậy, giáo viên phụ trách GDHN vẫn được đánh giá cao nhất, phù hợp với việc dạy GDHN ở trường THPT.

- Thời điểm thích hợp GDHN là vào đầu bậc học THPT (lớp 10) có tần số 134/150 người lựa chọn, tỷ lệ 89%.

Bảng 2.8. Số liệu giáo viên chọn thời điểm thích hợp nhất với việc GDHN


TT

Nội dung

Tần số

Tỷ lệ (%)

1

Vào đầu bậc học THPT (lớp 10)

134

89

2

Trong năm lớp 11

62

41

3

Trong năm học cuối cấp (lớp 12)

45

30

4

Trong quá trình dạy môn GDHN

73

49


5

Trong quá trình dạy môn Văn hóa lồng ghép hoạt động GDHN


77


51


6

Trong giờ sinh hoạt (chào cờ, lớp, khối lớp, cả trường)

46

31

Thời điểm học sinh bắt đầu vào bậc học (đầu lớp 10) được xem thích hợp nhất với việc dạy GDHN ở trường THPT thành phố Vĩnh Long, chứ không phải là năm học cuối cấp (lớp 12) như một số người nhầm tưởng. Qua


bảng số liệu tỷ lệ số người chọn đạt 89% là khá cao. Kế đến là hoạt động lồng ghép, nội dung trong quá trình dạy môn Văn hóa lồng ghép hoạt động GDHN đạt tỷ lệ 51%. Như vậy, để hoạt động GDHN đạt hiệu quả thì cần phải giáo dục học sinh ngay từ đầu bậc học (lớp 10) để học sinh làm quen và lồng ghép cả quá trình rèn luyện, giáo dục của giáo viên đối với học sinh nhằm giúp các em tìm hiểu, nghiên cứu và có quyết định đúng đắn về tương lai nghề nghiệp của mình.

2.3.4. Những yếu tố thuận lợi, khó khăn và hạn chế cho GDHN tại nhà trường‌

* Những yếu tố thuận lợi cho GDHN tại nhà trường

Qua khảo sát, phỏng vấn giáo viên, công tác giảng dạy môn giáo dục hướng nghiệp cho học sinh khối 10 đến 12 đã trở thành bắt buộc trong khung chương trình GDHN nên có tiết chuẩn cho giáo viên hướng nghiệp. Theo giáo viên, các yếu tố thuận lợi công tác GDHN như: sự quan tâm cấp lãnh đạo, đoàn thể và đặc biệt là sự quan tâm của PHHS, sự phối hợp của các Trường CĐ, ĐH, Tỉnh Đoàn và cơ quan quản lý GD-ĐT để tổ chức các đợt tập huấn, tư vấn tuyển sinh cho học sinh khối 11 và 12, các thầy cô làm công tác giảng dạy, tư vấn luôn có tâm huyết và có kinh nghiệm làm công tác tư vấn cho học sinh; công tác giảng dạy GDHN có sự hỗ trợ phần mềm tư vấn hướng nghiệp (cấp THPT) xác định năng lực học sinh, cơ sở vật chất đầy đủ,

… tạo điều kiện để học sinh hứng thú học tập thì công tác GDHN nơi đó rất hiệu quả.

* Những yếu tố hạn chế, khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động GDHN tại nhà trường

Ngược lại, nếu không có sự quan tâm, sự đầu tư đúng mức thì hiệu quả công tác GDHN đạt không cao. Kết quả khảo sát cho thấy mức độ yếu tố thuận lợi của cho GDHN tại trường THPT thành phố Vĩnh Long chưa được quan tâm đúng mức. Các yếu tố hạn chế, khó khăn như: đa số các trường có

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/06/2023