Hoạt Động Dạy Học; Quản Lí Hoạt Động Dạy - Học

Từ những quan niệm trên cho thấy: Quản lý là một quá trình tác động có mục đích, có định hướng phù hợp với quy luật khách quan của chủ thể quản lý nhằm khai thác và tận dụng hiệu quả những khả năng và cơ hội của đối tượng quản lý để đạt được mục tiêu quản lý trong một môi trường luôn biến động, chủ thể quản lý tác động vào đối tượng quản lý bằng các chế định xã hội, tổ chức về nhân lực, tài lực và vật lực, phẩm chất và uy tín, chế độ chính sách, đường lối chủ trương trong các phương pháp quản lý và công cụ quản lý để đạt mục tiêu quản lý.

Chức năng của quản lý

Quản lý là một dạng lao động đặc biệt điều khiển các hoạt động. Lao động quản lý có các chức năng cơ bản được quy định một cách khách quan bởi chức năng hoạt động của các khách thể quản lý. Từ các chức năng quản lý chủ thể quản lý xây dựng lên nội dung quản lý để tác động vào khách thể quản lý nhằm thực hiện mục tiêu quản lý. Trong tiến trình phát triển của lịch sử nền sản xuất xã hội luôn luôn vận động và phát triển không ngừng nên các chức năng quản lý cũng không ngừng được cải tiến phù hợp theo.

Bất kỳ chủ thể quản lý nào, ở bất kỳ lĩnh vực hay ngành nào, ở bất cứ cấp quản lý nào đều phải thực hiện bốn chức năng quản lý cơ bản: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra đánh giá.

Chức năng lập kế hoạch:

Là xác định mục tiêu cho bộ máy, xác định các bước đi để tiến đến mục tiêu, xác định nguồn lực và các biện pháp để thực hiện mục tiêu.

Khi thực hiện chức năng này chú ý đến nguyên tắc, tính mục đích và hệ thống các văn bản chỉ đạo của ngành, chính sách pháp luật của nhà nước.

Chức năng tổ chức:

Gồm hai nội dung là tổ chức bộ máy và tổ chức công việc.

Tổ chức bộ máy: Là sắp xếp bộ máy đáp ứng được yêu cầu của mục tiêu và nhiệm vụ đảm nhận. Tổ chức bộ máy phải phù hợp về cấu trúc, có cơ cấu hoạt

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

động, phải đủ khả năng để đạt mục tiêu. Công việc tổ chức bộ máy là phân chia tổ chức thành các bộ phận thực hiện các chức năng cụ thể và xây dựng cơ chế phối hợp, xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa các bộ phận nhằm đạt được sự đồng bộ trong hoạt động.

Tổ chức công việc: là sắp xếp công việc hợp lý, phân công nhiệm vụ rõ ràng để mọi người hướng vào mục tiêu chung.

Chức năng chỉ đạo:

Sau khi kế hoạch được lập, có cơ cấu tổ chức bộ máy đã hình thành nhân lực vật lực, tài lực đã chuẩn bị đầy đủ thì phải có người lãnh đạo vận hành tác nghiệp, điều chỉnh, điều hành hoạt động của tổ chức thực hiện đúng kế hoạch đã đặt ra để mục tiêu trong dự kiến trở thành hiện thực.

Trong quá trình chỉ đạo phải đi sâu, đi sát các hoạt động của hệ thống, kịp thời uốn nắn đi đúng tiến trình, đúng kế hoạch đã định, đúng định hướng vận hành của hệ thống giúp hệ thống đạt mục tiêu nhanh nhất, kết quả cao nhất, đúng kế hoạch đã đề ra.

Trong quá trình lãnh đạo phải luôn luôn liên kết, liên hệ với mọi thành viên trong hệ thống và động viên họ hoàn thành nhiệm vụ nhất định để đạt tới mục tiêu của kế hoạch, đồng thời đúc kết lại những thành công thất bại giúp nhà quản lý rút ra bài học kinh nghiệm để thực hiện quá trình quản lý sau này.

Chức năng kiểm tra, đánh giá:

Là công việc thu thập thông tin ngược để kiểm soát hoạt động của bộ máy nhằm kiểm soát kịp thời những sai sót lệch lạc đưa tổ chức tiến đến mục tiêu. Khi tiến hành kiểm tra nhà quản lý thông qua bốn bước sau:

Bước 1: Xác định chuẩn bị để đánh giá đối với công việc cần kiểm tra. Bước 2: Đánh giá theo chuẩn đã định.

Bước 3: Khẳng định điều làm được, chưa được theo kế hoạch dựa trên chuẩn đánh giá.

Bước 4: Xử lý kết quả để quyết định chỉ đạo tiếp hoặc điều chỉnh một phần kế hoạch nhằm xác định kết quả thực hiện kế hoạch kịp thời. Kiểm tra không hẳn là giai đoạn cuối kỳ khi công việc đó hoàn thành có kết quả mà nó diễn ra trong suốt quá trình thực hiện kế hoạch. Vậy kiểm tra là chức năng thực sự quan trọng của nhà quản lý (lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không lãnh đạo) nó là khâu đặc biệt quan trọng của chu trình quản lý, giúp người quản lý điều chỉnh theo hướng đích.

Bốn chức năng này quan hệ với nhau tạo thành một chu trình quản lý.



Sơ đồ 1.1. Mô hình chu trình quản lý


* Quản lý giáo dục

Giáo dục là một hiện tượng xã hội. Giáo dục xuất hiện nhằm thực hiện cơ chế truyền đạt kinh nghiệm lịch sử-xã hội của loài người của thế hệ trước cho thế hệ sau, làm cho xã hội phát triển không ngừng. Hơn nữa, giáo dục hôm nay được khẳng định là một trong những hoạt động xã hội quan trọng có ảnh hưởng sâu rộng đến lợi ích và quyền lợi, nghĩa vụ của mọi công dân, đến lợi ích kinh tế của mỗi cá nhân trong cộng đồng và lợi ích kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, để đạt mục đích đó, QLGD được coi là nhân tố tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện cơ chế nêu trên. Về thuật ngữ “quản lý giáo dục”, có nhiều quan niệm khác nhau, cụ thể như sau:

Theo P.V.Khuđôminxky: “QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức của các chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống giáo dục nhằm đảm bảo việc giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự phát triển toàn diện và hài hoà của họ trên cơ sở nhận thức và sử dụng các quy luật chung của xã hội cũng như các quy luật khách quan của quá trình dạy học và giáo dục, của sự phát triển thể chất và tâm lý trẻ em” (dẫn theo [25])

Theo M.M.Mechiti Zade: “QLGD là tập hợp những biện pháp tổ chức, phương pháp, cán bộ giáo dục, kế hoạch hoá, tài chính, cung tiêu...nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, đảm bảo sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả mặt số lượng cũng như chất lượng” (dẫn theo [25]).

Theo tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng: “QLGD là tổ chức các hoạt động dạy học và giáo dục. Có tổ chức được các hoạt động dạy học và giáo dục, thực hiện được các tính chất của nhà trường Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) là cụ thể hóa đường lối của Đảng và biến đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng nhu cầu của nhân dân, của đất nước”; [13]

Theo tác giả Trần Kiểm: “QLGD là hoạt động tự giác của chủ thể quản lý nhằm huy động, tổ chức, điều phối, điều chỉnh, giám sát...một cách có hiệu quả các nguồn lực giáo dục (nhân lực, vật lực, tài lực) phục vụ cho mục tiêu phát triển giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội”; [21]

Theo Đặng Quốc Bảo: “QLGD theo nghĩa tổng quát là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy mạnh mẽ công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển của xã hội”; [1]

Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang “QLGD là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục), nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam mà điểm hội tụ là quá trình dạy học giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất”; [25]

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII cũng đã viết “QLGD là sự tác động của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết quả mong muốn”. [10]

Từ các khái niệm trên về quản lý giáo dục, ta có thể hiểu: “quản lý giáo dục là quản lý hệ thống giáo dục, là sự tác động có mục đích, có hệ thống, có kế hoạch, khoa học, có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý, theo những quy luật khách quan, nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết quả mong muốn”. QLGD là một dạng hoạt động quản lý chuyên biệt, thông qua đó chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý nhằm thực hiện một mục tiêu QLGD nhất định. Như thế, sự tác động từ chủ thể quản lý đến khách thể quản lý có thể từ người quản lý đơn vị cơ sở giáo dục đến các đối tượng quản lý là người dạy, người học, cơ sở vật chất thiết bị hoặc là sự tác động giữa các cấp QLGD từ trung ương đến địa phương có thể xét dưới nhiều góc độ khác nhau xong quản lý phải được hiểu sự tác động nó bao hàm toàn bộ nội hàm của một hoạt động.

1.2.2. Hoạt động dạy học; quản lí hoạt động dạy - học

1.2.2.1. Hoạt động dạy học

Dạy học bao gồm hai hoạt động thống nhất biện chứng: hoạt động DH của giáo viên và hoạt động học tập, nghiên cứu của học sinh, sinh viên. Trong đó dưới sự điều khiển của giáo viên, người học tự giác tích cực tự tổ chức điều khiển hoạt động học tập của mình nhằm thực hiện những hoạt động DH. Trong hoạt động DH, người học có vai trò tự giác, chủ động, tích cực, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động học tập của bản thân. Để hoạt động học tập của người học đạt được hiệu quả và tránh những sai lầm thì HĐ học phải có sự hướng dẫn, tổ chức, chỉ đạo của thầy. Hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học tập của HS có liên hệ tác động lẫn nhau. Nếu thiếu một trong hai hoạt động đó, việc DH sẽ không diễn ra.

Hoạt động dạy học là hoạt động trung tâm chi phối tất cả các hoạt động GD khác trong nhà trường. Đó là con đường trực tiếp và thuận lợi nhất để giúp cho người học lĩnh hội được tri thức của xã hội loài người.

Hoạt động DH giúp trò:

+ Nắm vững tri thức khoa học;

+ Phát triển tư duy và năng lực hoạt động;

+ Hình thành thái độ, đạo đức, nhân cách và lí tưởng sống.

Hoạt động dạy học là một hệ thống toàn vẹn bao gồm các thành tố cơ bản: Mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức, người dạy- người học và diễn ra trong những điều kiện xác định:

Sơ đồ 1 2 Cấu trúc của hoạt động dạy học Tất cả các thành tố trên tồn 1

Sơ đồ 1.2. Cấu trúc của hoạt động dạy học


Tất cả các thành tố trên tồn tại và tác động qua lại lẫn nhau trong một mối liên hệ hữu cơ chặt chẽ và toàn bộ quá trình hay hệ thống DH lại được đặt trong một môi trường kinh tế xã hội ở cả bình diện vĩ mô lẫn vi mô.

Nói tóm lại, hoạt động dạy học là quá trình mà trong đó dưới sự tổ chức, điều khiển, lãnh đạo của người giáo viên làm cho người học tự giác, tích cực, chủ động tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức học tập của mình nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học.

Hoạt động DH làm cho SV nắm vững tri thức khoa học một cách có hệ thống, cơ bản, có những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết trong học tập, lao động và trong đời sống. Hoạt động này làm phát triển tư duy độc lập, sáng tạo, hình thành những năng lực cơ bản về nhận thức và hành động của SV, hình thành ở SV thế giới quan khoa học, lòng yêu nước, yêu CNXH.

1.2.2.2. Quản lý hoạt động dạy-học

Từ các quan niệm khác nhau về quản lý và hoạt động dạy học, chúng ta có thể hiểu quản lý hoạt động dạy học theo một số cách tiếp cận sau đây:

Quản lý hoạt động dạy học là quá trình quản lý hoạt động dạy của GV và quản lý hoạt động học của HS.

QL hoạt động dạy học là sự tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp qui luật của chủ thể QL đến khách thể QL trong quá trình dạy học nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Nhiệm vụ của QL dạy học là lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức, định hướng hoạt động dạy học. Nội dung của QL hoạt động dạy học trong nhà trường thường bao gồm các hoạt động sau:

+ QL hoạt động dạy của GV.

+ QL hoạt động học của HS.

+ QL môi trường dạy học.

+ QL các nguồn lực phục vụ yêu cầu dạy học.

Quản lý hoạt động dạy học là việc thực hiện các chức năng cơ bản của nhà quản lý: kế hoạch; tổ chức; chỉ đạo; kiểm tra đánh giá hoạt động dạy học.

Để QL tốt hoạt động dạy học trong nhà trường, hiệu trưởng cần phải tập trung vào hai việc: một là, nâng cao nhận thức về bản chất của hoạt động dạy học; hai là QL đổi mới hoạt động dạy học. Nhiệm vụ của hiệu trưởng vừa đổi mới tư duy của chính mình, vừa tạo điều kiện cho tập thể GV cũng đổi mới tư duy về hoạt động dạy học. Để làm chuyển biến nhận thức về bản chất của dạy học trong GV, hiệu trưởng không thể nói suông mà phải tổ chức để GV được nghe, được bàn bạc, thảo luận trên cơ sở được trang bị những tri thức cập nhật về những thành tựu của khoa

học giáo dục hiện đại. Phải để cho GV tự nhận thức, tự thay đổi quan niệm về đổi mới tư duy dạy học và phải cho họ biết rằng đây là đòi hỏi mang tính tất yếu khách quan, là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của chính họ. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để đổi mới QL hoạt động dạy học trong nhà trường.

1.2.3. Chuẩn đầu ra ở bậc giáo dục CĐ, ĐH; Quản lý hoạt động dạy học tiếng Anh theo CĐR

1.2.3.1. Chuẩn đầu ra ở bậc giáo dục CĐ, ĐH

* Khái niệm

Có rất nhiều quan điểm về chuẩn đầu ra khác nhau, có thể kể đến như:

Theo Jenkins và Unwin “Chuẩn đầu ra là sự khẳng định của những điều kỳ vọng, mong muốn một người tốt nghiệp có khả năng LÀM được nhờ kết quả của quá trình đào tạo”.

Chuẩn đầu ra là lời khẳng định của những điều mà chúng ta muốn sinh viên của chúng ta có khả năng làm, biết, hoặc hiểu nhờ hoàn thành một khóa đào tạo” (Univ.New South Wales, Australia).

"Chuẩn đầu ra là toàn bộ thông tin, kiến thức, sự hiểu biết, giá trị, kỹ năng, năng lực hoặc hành vi đòi hỏi một người làm chủ được nhờ vào việc hoàn thành một chương trình giáo dục” (UNESCO, 2011).

"Chuẩn đầu ra là sự khẳng định sinh viên tốt nghiệp làm được những gì và kiến thức, kỹ năng, thái độ hành vi cần đạt được của sinh viên" (Nguyễn Thiện Nhân).

Một cách phổ biến trên thế giới hiện nay (và cũng được ASEAN sử dụng khi xây dựng AQRF), chuẩn đầu ra là một bản diễn giải rõ ràng về những thứ mà người học kỳ vọng được biết, hiểu và/ hoặc làm như là kết quả của một quá trình học tập.

Khái niệm chuẩn đầu ra dường như đều được định nghĩa một cách đơn giản, song tùy vào bối cảnh và/hoặc góc độ khác nhau việc sử dụng chuẩn đầu ra lại có những hình thái biểu đạt theo mục đích cụ thể (Mike Coles and Andrea Bateman, 2015)

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 08/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí