Thực Trạng Kiểm Tra, Đánh Giá Kết Quả Dạy Học Môn Địa Lí


phương pháp này hạn chế việc rèn luyện kỹ của HS. Nhiều GV ngại làm đồ dùng DH, ngại tìm hiểu các phương tiện và công nghệ mới nên chủ yếu sử dụng các HTDH và PPDH truyền thống và một số GV ứng dụng CNTT vào dạy học chỉ dừng lại ở việc “chiếu - chép” nên không phát huy được hiệu quả, còn gây thêm áp lực cho HS trong quá trình tiếp nhận kiến thức.

Bên cạnh đó, GV cũng đã rất linh hoạt tạo không khí học tập trong lớp bằng cách tạo thành các nhóm nhỏ để HS có thể suy nghĩ thảo luận, tìm cách giải quyết. Phương pháp này cũng có những ưu điểm nổi trội như: việc thực hành các kỹ năng được tăng cường, củng cố và xác nhận đúng hay sai ngay, nên khi HS thảo luận theo nhóm nhỏ sẽ dễ dàng hơn cho GV quan sát và uốn nắn, hơn thế nữa là cơ hội để các em chia sẻ, học hỏi ý tưởng, quan điểm mới về các vấn đề được nêu ra với các bạn. Ngoài việc áp dụng nhiều phương pháp, cần quan tâm đến tâm lí, năng lực của HS để có PPDH thích hợp.

Đa dạng hóa phương pháp trong tiết dạy sẽ làm cho môn ĐL đỡ nhàm chán hơn. Điều này cũng gây hứng thú với HS và làm cho HS tự giác tham gia tích cực vào bài giảng. Những HĐDH mang tính chất “học mà chơi, chơi mà học” sẽ mang lại cho cảm giác thoải mái tinh thần khi học môn ĐL cũng như giúp các em nắm vững kiến thức hơn. Thông qua mỗi tiết học hãy để cho các em thấy sự gần gũi, thân thiện giữa thầy và trò, để cho các em có cảm nhận và suy nghĩ “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui.” HS nắm được kiến thức cơ bản sẽ phát huy tính tích cực, tự giác, lòng say mê học tập và đạt kết quả cao hơn.

2.3.4. Thực trạng kiểm tra, đánh giá kết quả dạy học môn Địa lí‌

Việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập môn ĐL ở trường THPT yêu cầu không chỉ kiểm tra về kiến thức mà còn phải đánh giá được thái độ, hành vi và đo lường sự tiến bộ trong rèn luyện đạo đức của học sinh. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát những nội dung liên quan đến kiểm tra đánh giá trên cả ba đối tượng là CBQL,GV và HS các trường THPT trên địa bàn thành phố Vĩnh Long. Kết quả khảo sát như sau:


Bảng 2.6. Thực trạng việc kiểm tra, đánh giá trong môn Địa lí



STT


Nội dung

Đối tượng

khảo sát

Mức độ

thực hiện

Hiệu quả

thực hiện

ĐTB

Hạng

ĐTB

Hạng

1

Thực hiện đúng chế độ kiểm

tra, đánh giá theo quy định

CBQL&GV

3,76

1

3,78

4

HS

3,01

3

2,98

4


2

Chấm và trả bài đúng thời

hạn có nhận xét vào bài làm của HS

CBQL&GV

3,63

2

3,83

3

HS

3,05

1

3,06

1


3

Vào điểm kiểm tra theo quy đinh của nhà trường và lưu trữkết quả trên mạng giáo

dục

CBQL&GV

3,52

3

3,85

2


HS


2,98


5


3,00


3


4

Kiểm tra, đánh giá mang

tính khách quan, công bằng

CBQL&GV

3,46

4

3,87

1

HS

3,00

4

3,04

2


5

Kiểm tra, đánh giá theo hướng phát huy năng lực

của học sinh

CBQL&GV

2,89

6

3,05

6

HS

3,03

2

2,89

5

6

Kết hợp nhiều hình thức

kiểm tra, đánh giá

CBQL&GV

3,42

5

3,57

5

HS

3,01

3

2,98

4

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 151 trang tài liệu này.

Quản lí hoạt động dạy học môn Địa lí ở các trường thpt trên địa bàn thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long - 9


Hầu hết các trường THPT đã thấy được tầm quan trọng của công tác kiểm tra, lãnh đạo nhà trường đã quán triệt và hướng dẫn cho GV thực hiện tốt quy chế kiểm tra, đánh giá, xếp loại HS và bám sát yêu cầu chuẩn kiến thức. Vì vậy kết quả khảo sát CBQL&GV môn ĐL ở những nội dung này cho thấy đa số đánh giá ở mức độ “rất thường xuyên” (ĐTB = 3.76) và hiệu quả “tốt” (ĐTB =


3.78). Còn HS đánh giá nội dung này cũng ở mức thường xuyên ĐTB từ 2.98 đến 3.05 và hiệu quả khá ĐTB từ 2.98 đến 3.06.

Tuy nhiên, việc thực hiện yêu cầu đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng phát huy năng lực HS thì chỉ đạt ĐTB = 2.89 tương ứng mức “thường xuyên” và ĐTB = 3.05 tương ứng hiệu quả ở mức khá cùng ngang mức với đánh giá của HS. Trong thực tế, lâu nay đối với các môn khoa học xã hội và nhân văn có hiện tượng thiên về KTĐG mức độ học thuộc lòng, kiểm tra mức độ ghi nhớ kiến thức lí thuyết một cách đơn thuần. Người ra đề thường dùng lại ở mức độ KT kiến thức lí thuyết, khả năng ghi nhớ (nhận biết, tái hiện), ít đặt ra yêu cầu KTĐG mức độ thông hiểu bản chấtvà kỹ năng vận dụng trì thức. Đề kiểm tra thường đòi hỏi HS phải nhớ nhiều sự kiện, con số để ứng phó với KTĐG, thi cử. Cách KTĐG đó gây nên tình trạng học tủ, học vẹt, ghi nhớ máy móc nhưng chưa nắm vững bản chất vấn đề, thiếu kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Tình trạng đó là hệ quả của lối dạy học cũ truyền thụ một chiều từ GV đến HS nên HS chưa được rèn luyện nhiều về kỹ năng phân tích, suy luận, đánh giá trong quá trình học nên các em chưa biết cách làm dạng đề này.

Hầu hết ở các trường THPT trên địa bàn thành phố Vĩnh Long hiện nay đều thực hiện việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập môn ĐL bằng các hình thức truyền thống (kiểm tra miệng, kiểm tra viết và trắc nghiệm thường xuyên, định kỳ). Ở các đơn vị trường THPTtrên địa bàn thành phố Vĩnh Long, môn ĐL được đưa vào tổ chức kiểm tra định kỳ tập trung cùng các môn học khác. Hình thức này đã phần nào nâng cao tinh thần và thái độ làm việc của GV cũng như ý thức học tập của HS. Tuy nhiên, nội dung kiểm tra theo hướng đổi mới vẫn còn hạn chế.

KTĐG chỉ tập trung trong chương trình môn học một lớp, khó đánh giá được mức độ hiểu, nắm vững cả mạch kiến thức của môn học trong cả cấp học và mối quan hệ liênkết. Từ đó, gây khó khăn cho việc dạy học tích hợp giữa các bộ môn theo chủ đề gắn với thực tiễn (giáo dục về bảo vệ môi trường, giáo dục


kỹ năng sống, tiết kiệm năng lượng hiệu quả, sức khỏe sinh sản vị thành niên...), tách rời học với thực hành, lí thuyết với thực tiễn.

Những năm gần đây, xu thế áp dụng hình thức trắc nghiệm phát triển khá mạnh trong các trường học. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã bộc lộ nhiều bất cập, chưa cân đối giữa hình thức tự luận với trắc nghiệm, có biểu hiện đơn điệu (thiên về câu hỏi đúng - sai) hoặc lạm dụng hình thức trắc nghiệm làm giảm hiệu quả KTĐG.

Tình trạng thiếu khách quan trong KTĐG vẫn còn khá phổ biến. Bệnh thành tích (nâng tỉ lệ khá, giỏi, lên lớp...) và thói quen dạy học thụ động, nặng với đối phó thi cử còn cản trở việc đổi mới PPDH. Để có thể thực hiện hiệu quả việc kiểm tra đánh giá theo hướng phát huy năng lực học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn ĐL, CBQL trường THPT cần có những chỉ đạo và giám sát hợp lí để GV thực hiện đúng những quy định đề ra.

2.4. Thực trạng công tác quản lí hoạt động dạy học môn Địa lí ở trường trường Trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long‌

2.4.1. Quản lí hoạt động dạy của giáo viên môn Địa lí‌

Trong việc quản lí HĐDH môn ĐL, nội dung quan trọng nhất chính là quản lí hoạt động dạy của GV môn ĐL, vì trong toàn bộ quá trình dạy học và trong hoạt động dạy học nói chung, người dạy đóng vai trò chủ đạo, quản lí hoạt động của người dạy là yếu tố quyết định hiệu quả của công tác quản lí HĐDH trong nhà trường. Trong quá trình dạy học, nếu người dạy thực hiện tốt tất cả các khâu của HĐDH thì kết quả dạy học sẽ cao, người học sẽ học tập hiệu quả, nhiệm vụ giáo dục sẽ hoàn thành.

Chúng tôi đã khảo sát CBQL&GV môn ĐL về thực trạng công tác này ở các trường THPT trên địa bàn thành phố Vĩnh Long và thu được kết quả như sau:


Bảng 2.7. Khảo sát về quản lí hoạt động dạy của giáo viên Địa lí



STT


Nội dung

Mức độ

thực hiện

Hiệu quả

thực hiện

ĐTB

Hạng

ĐTB

Hạng

1

Quản lí việc thực hiện chương trình DH

3,47

3

3,00

8

2

Quản lí việc chuẩn bị kế hoạch bài dạy

của giáo viên ĐL

3,21

5

3,16

4

3

Quản lí việc thực hiện kế hoạch bài dạy

của giáo viên ĐL

3,20

6

3,16

4

4

Quản lí giờ lên lớp, dự giờ và đánh giá

nhận xét bài học của giáo viên

3,17

8

3,21

2

5

Quản lí hồ sơ chuyên môn của giáo viên

3,19

7

3,10

7


6

Quản lí hoạt động tổ chuyên môn ĐL theo hướng tiếp cận năng lực của học

sinh


3,23


4


3,12


6

7

Quản lí hoạt động kiểm tra, đánh giá kết

quả học tập của học sinh

3,59

2

3,25

1

8

Quản lí các điều kiện dạy học môn ĐL

3,61

1

3,10

3


Kết quả khảo sát mức độ thực hiện cho thấy CBQL và GV môn ĐL đã quan tâm đến tất cả các khâu trong chu trình lên lớp nắm chắc điều kiện dạy học môn ĐL của trường mình để khai thác nằm nâng cao hiệu quả trong các tiết dạy đáng ghi nhận là điểm ở các trường ngang nhau cho thấy là tất cả CBQL và GV môn ĐL đều ý thức tốt trong việc quản lí các điều kiện dạy học môn ĐL. Để nâng cao chất lượng hoạt động dạy học môn ĐL, bên cạnh việc nâng cao nhận thức và đổi mới nội dung, phương pháp, cần quan tâm đến các điều kiện hỗ trợ như csvc, thiết bị đồ dùng dạy học, các chế độ chính sách, động viên khuyến


khích và tạo môi trường sư phạm thuận lợi. Những yếu tố này góp phần không nhỏ trong việc đảm bảo hoạt động dạy học môn ĐL đạt hiệu quả và hoàn thành mục tiêu giáo dục đề ra.

Từ kết quả khảo sát cũng cho thấy vai trò quan trọng tiếp theo là việc quản lí hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh ở vị trí thứ hai với ĐTB =3.59%, tương ứng với lựa chọn ở mức rất thường xuyên và hiệu quả thực hiện xếp ở vị trí thứ 1, cho thấy CBQL và GV môn ĐL đã có chú trọng sự vận dụng các hiểu biết riêng lẻ khác nhau để giải quyết một vấn đề mới đối với HS, gắn với tình huống cuộc sống, không kiểm tra kiến thức môn ĐL riêng lẻ của HS mà kiểm tra các năng lực vận dụng, có xu hướng xây dựng các bài kiểm tra, đánh giá theo năng lực dần dần, không lấy việc kiểm tra khả năng tái hiện kiến thức đã học làm trungtâm của việc đánh giá mà cần chú trọng khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau.

Được xếp ở vị trí thứ ba với ĐTB =3.47, quản lí việc thực hiện chương trình dạy học tương ứng với lựa chọn ở mức rất thường xuyên, số liệu trên đã thể hiện sự nghiêm túc trong việc đảm bảo thực hiện nội dung chương trình dạy học môn ĐL ở trường THPT. Những yêu cầu về thực hiện phân phối chương trình được GV và các trường thực hiện nghiêm túc, đúng quy chế. Đây là điều đáng được ghi nhận trong công tác quản lí hoạt động dạy học môn ĐL ở trường THPT trên địa bàn thành phố Vĩnh Long hiện nay.

Ở các trường phổ thông, tổ chuyên môn luôn được ví như “thợ cả” trong việc góp phần có tính quyết định để xây dựng “ngôi nhà giáo dục” của nhà trường phát triển toàn diện và bền vững nhưng việc quản lí hoạt động tổ chuyên môn ĐL theo hướng tiếp cận năng lực của học sinh ở mức “thường xuyên” (ĐTB = 3.23), tổ chức các chuyên đề cho GV môn ĐL học tập theo quan điểm phát triển năng lực không giới hạn vào khả năng tái hiện tri thức mà chú trọng khả năng vận dụng tri thức trong việc giải quyết các nhiệm vụ phức hợp.

Ngoài ra, các chủ thể quản lí cũng thường xuyên chỉ đạo việc chuẩn bị,


thực hiện kế hoạch bài dạy của GV môn ĐL (ĐTB = 3.19 -> 3.21) tương ứng với hiệu quả thực hiện ở mức “khá” và hiệu quả thực hiện xếp ở vị trí đồng hạng 4 cho thấy CBQL có chú trọng công tác chỉ đạo xây đựng kế hoạch bài dạy môn ĐL được thực hiện thông qua việc CBQL chỉ đạo GV môn ĐL và tổ/nhóm chuyên môn ĐL xây dựng kế hoạch dạy học theo học kỳ, theo năm ngay từ đầu năm học và đưa lên để BGH duyệt. Hàng tháng, kế hoạch dạy học của tổ/nhóm môn ĐL và của GV môn ĐL được thể hiện trong biên bản họp và báo cáo định kỳ lên BGH. Ngoài ra, lịch báo giảng và sổ đầu bài được BGH kiểm tra định kỳ hàng tháng đảm bảo GV môn ĐL thực hiện đúng kế hoạch dạy học môn ĐL. Mọi thay đổi, điều chỉnh đều phải được báo cáo để BGH nắm rõ, như trường THPT Nguyễn Thông có kiểm tra việc thực hiện đúng, đủ theo phân phối chương trình môn ĐL, giữa kế hoạch giảng dạy với phiếu báo giảng, sổ ghi đầu bài và vở HS. Ở đơn vị trường THPT Lưu Văn Liệt quy định các phó hiệu trưởng phải luân phiên hàng tháng tham gia các buổi sinh hoạt với tổ/nhóm chuyên môn ĐL để vừa giám sát việcthực hiện nội dung chương trình môn ĐL, vừa kịp thời chia sẻ, động viên GV trong việc thực hiện và hoàn thành kế hoạch bài dạy của GV dạy môn ĐL. Việc này cần được nhân rộng ở các trường khác để góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lí hoạt động dạy học nói chung và quản lí HĐDH môn ĐL nói riêng, nhưng có một số trường làm theo hình thức đối phó.

Mức độ thực hiện (ĐTB 3.19) và hiệu quả quản lí chỉ dừng lại ở mức “khá” (BTB 3.10) ở vị trí thứ áp chót cho nên quản lí hồ sơ chuyên môn của GV ĐL chỉ mới dừng lại ở việc quản lí hành chính. Chúng ta thấy rằng, thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ ĐL, các GV môn ĐL đã cùng nhau trao đổi về các phương pháp dạy học mới, lựa chọn các phương pháp thích hợp cho từng giáo viên môn ĐL, rồi tổ chức thao giảng, dự giờ rút kinh nghiệm, bổ sung, góp ý cho nhau nhưng chưa đi sâu về sử dụng đồ dùng DH môn ĐL, thiết bị dạy học đúng, đủ theo các tiết trong phân phối chương trình môn ĐL; tổ chức hoạt


động ngoại khóa, báo cáo chuyên đề, sáng kiến kinh nghiệm môn ĐL.

Quản lí giờ lên lớp, dự giờ và đánh giá nhận xét bài học của GV môn ĐL đạt ở mức “thường xuyên” (ĐTB từ 3.17) và hiệu quả thực hiện đạt ở mức “khá” (ĐTB từ 3.21) ở các trường là hoạt động quản lí cần thiết và mang lại hiệu quả, vì thông qua đó, CBQL dễ dàng đánh giá được hiệu quả thực tế hoạt động giảng dạy của giáo viên môn ĐL, hạn chế được những kết luận phiến diện, thiếu khách quan khi chỉ đánh giá thông qua hồ sơ, báo cáo của giáo viên, của tổ/nhóm chuyên môn ĐL.

Ở trường THPT Nguyễn Thông, hiệu trưởng ra quyết định thành lập ban kiểm tra chuyên môn ĐL. Lực lượng kiểm tra gồm: Hiệu trưởng làm trưởng ban, phó hiệu trưởng chuyên môn là phó ban, tổ trưởng môn ĐL, GV giỏi cấp tỉnh môn ĐL là thành viên kiểm tra theo cơ chế trực tiếp, đột xuất, tổ trưởng chuyên môn môn ĐL làm nhóm trưởng có trách nhiệm tổng hợp đánh giá GV môn ĐL, cũng như tất cả các thông tin thu được qua dự giờ. Ngoài ra hàng tuần, hàng tháng tổ trưởng chuyên môn ĐL có trách nhiệm tổ chức dự giờ thăm lớp, thao giảng ở tổ để rút kinh nghiệm hay minh họa cho chuyên đề môn ĐL nào đó chẳng hạn như tiết dạy khó, tiết ôn tập. Nếu các trường khác thực hiện theo trường THPT Nguyễn Thông thì sẽ nâng cao được chất lượng môn ĐL.

2.4.2. Quản lí hoạt động học môn Địa lí của học sinh‌

Hoạt động học tập của HS là một bộ phận không thể tách rời trong hoạt động dạy học môn ĐL. Do đó, quản lí hoạt động dạy học môn ĐL cần quan tâm đến quản lí hoạt động học tập bộ môn của HS. Trong việc quản lí hoạt động học tập của HS, GV là người giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Vì vậy, bên cạnh sự chỉ đạo của CBQL, GV ĐL là người chủ động trong việc giáo dục HS ý thức và động cơ đúng đắn trong học tập, hướng dẫn HS xây dựng phương pháp học tập hiệu quả, thiết kế và tổ chức các hoạt động học tập phù hợp với HS. Chúng tôi đã lập bảng khảo sát những nội dung liên quan đến vấn đề này. Cụ thể như sau:

Xem tất cả 151 trang.

Ngày đăng: 13/07/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí