đặc biệt là các cuộc hội thảo do tổ chức công đoàn cơ sở (CĐCS): Công ty ô tô Toyota Việt Nam, công ty Honda Việt Nam, công ty TNHH Việt Nam Suzuki, công đoàn cấp trên cơ sở Tổng Công ty Máy động lực Máy Nông nghiệp liên quan đến chuyên đề về QHLĐ, các văn bản pháp luật liên quan đến QHLĐ.
- Thu thập dữ liệu sơ cấp: Để thu thập dữ liệu sơ cấp phục vụ cho luận án, NCS đã kết hợp sử dụng phương pháp chuyên gia, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp quan sát, điều tra bằng bảng hỏi, phương pháp phỏng vấn sâu cá nhân, cụ thể như:
+ Phương pháp chuyên gia
NCS đã sử dụng phưong pháp chuyên gia để làm sáng tỏ hơn các nội dung nghiên cứu, nhất là các giải pháp. Học viên đã tham vấn ý kiến chuyên gia gồm những cán bộ quản lý, nhà nghiên cứu, cán bộ công đoàn (CBCĐ), NSDLĐ. Họ đều là những người có hiểu biết chuyên sâu, có nhiều kinh nghiệm, tâm huyết với lĩnh vực QHLĐ.
Để đảm bảo mức độ chính xác của thông tin khi thực hiện phương pháp chuyên gia, NCS đã xin phép ghi chép lại đầy đủ những câu trả lời của các chuyên gia, sau đó tổng hợp lại làm căn cứ trong quá trình thực hiện nghiên cứu của mình.
+ Phương pháp điều tra xã hội học
- Cách thức chọn mẫu và quá trình thực hiện điều tra:
Với mục tiêu phân tích các QHLĐ trong DN ô tô có vốn đầu tư của Nhật Bản, nên trong nghiên cứu này, NCS tiến hành chọn mẫu có tính điển hình với 03 đơn vị để tiến hành khảo sát là công ty Toyota, công ty Honda và công ty SUZUKI. Ba công ty này chiếm tỷ trọng lớn và về năng lực sản xuất và sử dụng lao động trong tổng số các DN sản xuất ô tô của Nhật Bản tại Việt Nam. Do vậy, những vấn đề về QHLĐ ở 03 DN này có tính đại diện cho các DN sản xuất ô tô có vốn đầu tư của Nhật Bảntại Việt Nam. Trên cơ sở số lao động của 03 DN, số lượng và cơ cấu đối tượng cụ thể như sau:
Bảng 1: Bảng phân bổ mẫu điều tra khảo sát năm 2019
Đơn vị: Người
Công ty Toyota | Công Ty Honda VN | Công ty SUZUKI | Tổng | |
NLĐ | 90 | 90 | 70 | 250 |
Quản trị công ty | 10 | 8 | 7 | 25 |
Cản bộ công đoàn CS | 5 | 5 | 5 | 15 |
CB CĐ trên cơ sở | 10 | |||
Tổng | 300 |
Có thể bạn quan tâm!
- Quan hệ lao động trong các doanh nghiệp sản xuất ô tô có vốn đầu tư Nhật Bản tại Việt Nam - 1
- Quan hệ lao động trong các doanh nghiệp sản xuất ô tô có vốn đầu tư Nhật Bản tại Việt Nam - 2
- Các Công Trình Nghiên Cứu Ở Trong Nước Về Quan Hệ Lao Động
- Kinh Nghiệm Một Số Nước Trong Việc Xây Dựng Quan Hệ Lao Động
- Các Khái Niệm Liên Quan Đến Quan Hệ Lao Động
Xem toàn bộ 199 trang tài liệu này.
+ Phương pháp quan sát:
Tác giả trực tiếp quan sát hệ thống QHLĐ tại 03 DN sản xuất ô tô có vốn đầu tư của Nhật Bản. Tác giả trực tiếp gặp gỡ, trao đổi và thảo luận với NLĐ, NSDLĐ, CBCĐ của DN. Qua đó, phát hiện những vấn đề chuyên sâu đồng thời tạo dựng lên những hình ảnh cơ bản về thực trạng QHLĐ tại DN.
Việc trực tiếp quan sát được tiến hành chủ yếu trong hai giai đoạn là lúc bắt đầu nghiên cứu và trong quá trình nghiên cứu thực trạng QHLĐ tại DN.
+Phương pháp phỏng vấn sâu:
Được NCS ghi chép, tổng hợp, phân tích kiểm tra dựa theo các tiêu chí về tính chính xác, tính phù hợp và tính cập Nhật Bản. Những dữ liệu phù hợp được NCS sử dụng nhằm mô tả, giải thích cho một số nhận định được đưa ra trong luận án và làm rò cho những kết quả mà NCS đã chỉ ra trước đó (nghiên cứu định tính).
Phương pháp này được tác giả sử dụng đối với các chuyên gia là 15 người, bao gồm: CBCĐ 10 người (trong đó CBCĐ cơ sở 5 người và CBCĐ cấp trên cơ sở 05 người); 05 chuyên gia trong lĩnh vực QHLĐ. Mục đích là làm rò cho tài liệu điều tra bằng bảng hỏi và kiểm tra tính đúng đắn của các nhận định cũng như các vấn đề liên quan đến giải pháp.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dùng cả phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng để phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
Bảng 2: Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu | Kỹ thuật | Thời gian thực hiện | |
1 | Định tính | Phỏng vấn sâu | Năm 2018 |
Năm 2019 | |||
2 | Định lượng | Khảo sát sơ bộ | Năm 2018 |
Khảo sát chính thức | Năm 2019 |
* Nghiên cứu định tính: được thực hiện thông qua phỏng vấn sâu 15 chuyên gia. Nghiên cứu này được tiến hành trong 2 năm (2018, 2019).
* Nghiên cứu định lượng: được thực hiện thông qua quá trình khảo sát để thu thập dữ liệu. Nghiên cứu này cũng được tiến hành trong 2 năm (2018, 2019). Nghiên cứu này được thực hiện theo 2 giai đoạn: Giai đoạn 1: nghiên cứu sơ bộ; giai đoạn 2: nghiên cứu chính thức.
Ngoài ra, luận án còn sử dụng thêm một số phương pháp nghiên cứu khác trong luận án như:
* Phương pháp thống kê, mô tả
Luận án được nghiên cứu dựa trên việc sử dụng nguồn số liệu được cung cấp bởi Tổng cục thống kê, Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan, Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á - Thái Bình Dương, Tổng Công ty Máy động lực và Máy nông nghiệp Việt Nam - CTCP, Viện Công nhân & Công đoàn… Các số liệu được tập hợp, cập nhật nhằm phân tích, đánh giá về QHLĐ tại các DN sản xuất ô tô của Nhật Bản tại Việt Nam.
* Phương phápxử lý dữ liệu
Với các dữ liệu đã thu thập được, tác giả luận án sử dụng phần mềm SPSS
18.0 và phương pháp phân tích để tiến hành phân tích, tổng hợp. Từ đó, đưa ra các nhận xét và kết luận làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp được đề cập ở chương 4 của luận án.
* Phương pháp phân tích tổng hợp tài liệu:
NCS tiến hành thu thập tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau có liên quan đến QHLĐ tại các DN sản xuất ô tô có vốn đầu tư Nhật Bản thông các bài báo, các báo cáo, công trình nghiên cứu, sách báo, tạp chí, cổng thông tin điện tử của Bộ Công Thương, Tổng cục Thống kê, các DN sản xuất ô tô trong phạm vi nghiên cứu… Các
tài liệu này được sắp xếp, kiểm tra dựa theo các tiêu chí về tính chính xác, tính phù hợp và tính cập Nhật Bản. Tiếp theo đó, NCS thực hiện đối chiếu, so sánh để có được sự nhất quán, từ đó đưa ra được những nhận xét, đánh giá, kết luận, phản ánh được nội dung phân tích với độ tin cậy cao và có nguồn trích dẫn rò ràng.
* Phương pháp so sánh:
Phương pháp so sánh được sử dụng trong quá trình đánh giá các kết quả điều tra, phân tích cũng như xu hướng biến động tăng giảm của các kết quả đó so với các mốc. Phụ thuộc vào mục tiêu, các mốc so sánh sẽ được xác định phù hợp với các điều kiện có thể so sánh được. Trong luận án này, bằng cách so sánh các số liệu trong khoảng 5 năm liên tiếp (2013 - 2018) NCS chỉ ra những sự thay đổi trong quá trình hoạt động SXKD lĩnh vực ô tô; các vấn đề liên quan đến QHLĐ. Để từ đó đánh giá thực trạng QHLĐ trong các DN sản xuất ô tô có vốn đầu tư Nhật Bản tại Việt Nam trong giai đoạn vừa qua làm cơ sở đề xuất một số giải pháp cho vấn đề nghiên cứu của luận án.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
5.1. Về mặt lý luận
- Đã khái quát các khái niệm liên quan đến QHLĐ;
- Hệ thống hóa một số nội dung cơ bản về QHLĐ trong DN.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến QHLĐ trong các DN trong thời kỳ đổi mới, hội nhập
- Làm rò những quan điểm của Đảng về QHLĐ tại các DN có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
5.2. Về thực tiễn
- Đánh giá thực trạng QHLĐ tại các DN sản xuất ô tô có vốn đầu tư của Nhật Bản tại Việt Nam. Từ đó, đưa ra những đánh giá, nhận xét về ưu điểm và tồn tại trong QHLĐ tại DN.
- Đề xuất giải pháp xây dựng QHLĐ hướng tới QHLĐ hài hòa, ổn định tại các DN sản xuất ô tô có vốn đầu tư Nhật Bản trong thời gian tới.
- Luận án có thể là tài liệu tham khảo đối với các DN sản xuất ô tô có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; các tổ chức Công đoàn có cùng loại hình, các nhà nghiên cứu lý luận, các nhà nghiên cứu quan tâm tới các vấn đề liên quan đến
QHLĐ trong DN thời kỳ đổi mới.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, nội dung chính của luận án gồm 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu quan hệ lao động trong doanh nghiệp.
Chương 2. Cơ sở lý luận và thực tiễn về quan hệ lao động tại doanh nghiệp.
Chương 3. Thực trạng quan hệ lao động trong các doanh nghiệp sản xuất ô tô có vốn đầu tư Nhật Bản tại Việt Nam
Chương 4. Định hướng và giải pháp xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định trong các doanh nghiệp sản xuất ô tô có vốn đầu tư Nhật Bản tại Việt Nam.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨUQUAN HỆ LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài về quan hệ lao động
Các nghiên cứu về khái niệm, bản chất, nội dung của quan hệ lao động
- Nghiên cứu về khái niệm của quan hệ lao động
Trên thế giới đã có nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm quan hệ lao động (QHLĐ) thông qua các công trình nghiên cứu của họ về sự hình thành và phát triển của QHLĐ. QHLĐ được hình thành từ rất sớm cùng với các quá trình thuê mướn lao động. QHLĐ là phạm trù lịch sử gắn liền với sự hình thành và phát triển của thị trường lao động (TTLĐ).
Ngay từ thế kỷ 17, các nhà khoa học William Petty (1623-1687), Fransois Quesnay (1694-1774) đã nghiên cứu nội hàm của QHLĐ. Các nghiên cứu này tiếp tục được các nhà nghiên cứu như Adam Smith (1723-1790), David Ricardo (1772- 1823), Karl Marx (1843-1848) phát triển sau đó. Tuy nhiên, những nghiên cứu này cũng chưa từng đề cập đến thuật ngữ QHLĐ mà chủ yếu đi sâu tập trung nghiên cứu bản chất kinh tế trong mối quan hệ giữa NLĐ và chủ sở hữu tư liệu sản xuất [29].
Năm 1958, nhà khoa học đầu tiên chính thức nghiên cứu về QHLĐ đó là J.T Dun Lop - giáo sư Trường Đại học Harvard; ông đã viết "QHLĐ là một hệ thống có tính logic như một hệ thống kinh tế trong một xã hội công nghiệp" [130]. Theo nhà nghiên cứu Grant và Malette (Trường Đại học Tổng hợp Québec tại Montréal) lại cho rằng QHLĐ là những mối quan hệ cá nhân và tập thể giao hoà trong một tổ chức công nghiệp hoá. Trong khi đó, giáo sư Loic Cadin (Trường đại học Thương mại Paris - ESCP) lại quan niệm QHLĐ là một tập hợp các quy tắc và chính sách thực tế cấu thành nên các mối quan hệ giữa NSDLĐ và NLĐ với sự điều chỉnh và can thiệp về mặt pháp lý của Nhà nước trong một DN, một ngành, một vùng hay trong một quốc gia.
Khoảng cuối thế kỷ 19, những thuật ngữ về QHLĐ mới thực xuất hiện. Đó là thời kỳ phong trào đấu tranh của công nhân trong các nhà máy ở Châu Âu bắt đầu
nổ ra với quy mô ngày càng lớn. Các cuộc đình công ẩn chứa bạo lực đã làm tổn hại quá trình sản xuất và đe dọa sự ổn định của xã hội. Đây là nguyên nhân khoa học về QHLĐ đã ra đời và phát triển nhằm nghiên cứu, điều chỉnh các mối quan hệ giữa NLĐ, NSDLĐ và nhà nước. Khi đó, tồn tại nhiều trường phái rất khác nhau về QHLĐ. Các tác giả điển hình trong thời kỳ này, chủ yếu tập trung nghiên cứu QHLĐ ở các nước có nền công nghiệp phát triển ở Mỹ và Châu Âu như: Kochan
T.A (1979) [139], Ronald Dore (1973), Herbert Blumer (1974), Grant.M và Mallette.N (1985), Andre Petit (1985)... Đến giai đoạn này, lý luận về QHLĐ mới được hệ thống hóa và tiếp cận như một ngành khoa học độc lập.
Giai đoạn tiếp theo, các tác giả Lloyd G.Reynold, Stanley Master và Colletta H Moser (1986) đã đưa ra khái niệm về QHLĐ ở mức độ khái quát nhất, theo phạm vi điều chỉnh của pháp luật nhưng không đề cập chi tiết về các nội dung của QHLĐ. Năm 1989, các nhà nghiên cứu như Boivin và Guilbaul đã đưa ra quan điểm: “QHLĐ là hệ thống quản lý các vấn đề về lao động trong một tổ chức công nghiệp với một đối tượng nghiên cứu đặc biệt. Đó là các xung đột xảy ra do tác động tương hỗ giữa hiệu quả cần đạt của một phương thức quản lý, nhu cầu an toàn trong công ăn việc làm của các cá nhân bị quản lý và các chính sách công của Nhà nước”. Hay nghiên cứu của Daniel Quinn Mills (1994), ông cho rằng: “QHLĐ là mối quan hệ qua lại giữa những con người, các tổ chức, các cấp độ quản lý trong một môi trường
công nghiệp”.
Đến giữa thế kỷ 20, khoa học về QHLĐ đã chính thức ra đời nhằm nghiên cứu các khái niệm, các cơ chế, thủ tục làm cơ sở cho NLĐ, NSDLĐ để giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến lợi ích giữa NLĐ và chủ sử dụng lao động.
Ban đầu các nhà nghiên cứu tập trung chủ yếu nghiên cứu quan hệ NLĐ và NSDLĐ trong lĩnh vực công nghiệp do các xung đột giữa giới chủ và thợ. Chủ yếu thường xảy ra trong môi trường công nghiệp. Do đó, thuật ngữ "Industrial Relations" chính thức ra đời nhằm ám chỉ QHLĐ trong lĩnh vực công nghiệp[133].
Tuy nhiên, dưới sự tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật, QHLĐ không chỉ diễn ra phổ biến trong các tổ chức công nghiệp mà còn diễn ra ở mọi lĩnh vực khác của nền kinh tế xã hội. Vì vậy, ngày nay thuật ngữ "Industrial Relations" và thuật ngữ "Labour Relations" đều chính thức được hiểu là QHLĐ nhằm chỉ quan hệ
giữa NLĐ, NSDLĐ, và nhà nước để giải quyết các vấn đề phát sinh xoay quanh quan hệ thuê mướn lao động[115].
Năm 2002, theo nghiên cứu của Loic Cadin và cộng sự đã đưa ra khái niệm về QHLĐ được đề cấp dưới góc độ pháp lý. Nghiên cứu cho rằng: “QHLĐ là nói tới một tập hợp các quy tắc và chính sách thực tế cấu thành nên các mối quan hệ giữa NSDLĐ và NLĐ với sự điều chỉnh và can thiệp về mặt pháp lý của Nhà nước trong một DN, một ngành hay trong một quốc gia”.
Có thể kể thêm tên một số nhà nghiên cứu trong giai đoạn này như: Kaufman (2004), Greg Bamber, Russell Lansbury (2004) [125]... thông qua công trình nghiên cứu của họ về sự hình thành và phát triển của QHLĐ trên thế giới đã đưa nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm QHLĐ.
Theo Thường Khải (2008), trường đại học Nhân dân Trung Quốc thì ở các nước khác nhau hoặc dưới các thể chế khác nhau, QHLĐ lại có tên gọi khác nhau như: Quan hệ chủ thợ, quan hệ thuê mướn lao động, Quan hệ sử dụng lao động, Quan hệ nhân viên, QHLĐ cá biệt, QHLĐ tập thể… [53].
…
Như vậy có thể thấy rằng rất nhiều các nghiên cứu trên Thế giới quan tâm về lĩnh vực QHLĐ. Vấn đề này được nhìn nhận, đánh giá, phân tích từ nhiều góc độ khác nhau, qua các giai đoạn thời gian khác nhau. Điều đó thể hiện tính phức tạp, đa dạng của QHLĐ trong điều kiện kinh tế thị trường. Các nghiên cứu này đã hệ thống hóa quan điểm, tư tưởng mang lại những giá trị lý luận để giải thích thực tiễn về QHLĐ trong DN qua từng thời kỳ.
- Các lý thuyết về quan hệ lao động
Được xuất phát từ hai trường phái: trường phái đơn nhất và trường phái đa nguyên. Trong đó, trường phái đơn nhất được xuất phát từ giả định và nguyên lý rằng giữ mâu thuẫn tại nơi làm việc không phải là đặc trưng thường có của mối quan hệ quản lý và nhân viên [98]; Còn trường phái đa nguyên thì xuất phát từ giả định và nguyên lý rằng không thể tránh khỏi mâu thuẫn tại nơi làm việc.
Từ các lý thuyết theo hai trường phái này đã có những học thuyết phái sinh trong QHLĐ như lý thuyết hệ thống (ST - Systems theory), lý thuyết lựa chọn chiến lược (SCT - Strategic choice theory) và lý thuyết đối tác xã hội