Về Việc Từ Chối Nhận Di Sản Của Người Thừa Kế


dân sự đầy đủ. Ngược lại, nếu xét theo quy định tại khoản 1 Điều 647 Bộ luật Dân sự thì tuy rằng một người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nhưng đã bị hạn chế theo bản án có hiệu lực pháp luật thì khi người đó xác lập giao dịch dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện.

Như vậy người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo bản án có hiệu lực, khi lập di chúc mà không có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật thì di chúc do người đó lập ra có hiệu lực hay không có hiệu lực pháp luật?

Theo học viên, cần sửa đổi khoản 1 Điều 647 Bộ luật Dân sự như sau: "1. Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần, hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình, hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà không được sự đồng ý của người giám hộ".

b) Về Điều 648 Bộ luật Dân sự

Điều 648 Bộ luật Dân sự quy định về quyền của người lập di chúc. Theo đó, người lập di chúc có các quyền sau: Chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế; phân định phần di sản cho từng người thừa kế; Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng; giao nghĩa vụ cho người thừa kế; chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.

Ngoài các quyền trên, người lập di chúc còn có các quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc được ghi nhận trong Điều 662 Bộ luật Dân sự - Đây đều là các quyền của người lập di chúc nhưng lại được ghi nhận bởi hai điều luật là không hợp lý, không cần thiết. Vì vậy, nên quy định gộp hai Điều 648 và 662 vào với nhau.

3.1.2. Về quyền thừa kế

Pháp luật ghi nhận và bảo đảm quyền thừa kế của mọi chủ thể. Tuy nhiên, mỗi loại chủ thể có một phạm vi quyền khác nhau. Vì vậy, Điều 631 Bộ luật Dân sự cần quy định lại như sau:


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.

Điều 631. Quyền thừa kế của cá nhân

Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Các chủ thể khác có quyền hưởng di sản theo di chúc do người khác để lại.

Áp dụng pháp luật dân sự về hiệu lực của di chúc trong thực tiễn xét xử của Tòa án - 9

3.1.3. Về người không được quyền hưởng di sản

Người không được quyền hưởng di sản là người thừa kế theo luật hoặc theo di chúc của người để lại di sản nhưng bị tước quyền hưởng di sản theo quy định của pháp luật hoặc là người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản nhưng bị chính người đó truất quyền hưởng di sản bằng một di chúc có hiệu lực pháp luật.

Ngoài ra những người do bị ép buộc, xúi giục, lừa dối dẫn đến hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người để lại di sản nhưng không nhằm mục đích cướp tài sản thì theo học viên, người bị ép buộc, xúi giục, lừa dối đó vẫn có thể được hưởng di sản (vì ý chí của họ không được coi là "cố ý").

Vì vậy, Điều 643 Bộ luật Dân sự cần quy định lại như sau: Điều 643. Người không được quyền hưởng di sản

1- Người thừa kế theo luật của người để lại di sản không được quyền hưởng di sản nếu đã bị người đó truất quyền hưởng di sản bằng một di chúc có hiệu lực pháp luật.

2- Những người thừa kế sau đây cũng không được quyền hưởng di sản:

a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;

b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;

c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm đến tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;

d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc; sửa chữa di chúc; hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.

3- Những người quy định tại khoản 2 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.

3.1.4. Về người thừa kế

Người thừa kế bao gồm hai loại: thừa kế theo luật và thừa kế theo di chúc. Người thừa kế theo luật được pháp luật xác định dựa trên cơ sở các mối quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng, huyết thống giữa họ với người để lại di sản, nên người thừa kế theo luật bắt buộc phải là cá nhân và bắt buộc phải có một trong ba mối quan hệ trên với người để lại di sản thừa kế.

Người thừa kế theo di chúc được xác định bởi ý chí của người để lại di chúc, họ có thể là một chủ thể bất kỳ, được xác định cụ thể trong di chúc, không cần phải xem xét việc họ có một trong ba mối quan hệ (hôn nhân, nuôi dưỡng, huyết thống) với người để lại di sản thừa kế hay không.

Điều 635 Bộ luật Dân sự quy định: "Người thừa kế là cá nhân (không xác định rò cá nhân thừa kế theo luật hay cá nhân thừa kế theo di chúc) phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết" [17].

Quy định như này sẽ dẫn đến có nhiều cách hiểu khác nhau về một điều luật. Vì vậy Điều 635 Bộ luật Dân sự cần phải sửa lại như sau:

Điều 635. Người thừa kế

1- Người thừa kế là cá nhân được hưởng di sản mà người chết để lại theo quy định của pháp luật hoặc theo di chúc của người để lại di sản.


2- Người thừa kế phải là người còn sống (nếu là cá nhân) hoặc phải còn tồn tại (nếu là cơ quan, tổ chức) vào thời điểm mở thừa kế.

3- Cá nhân là người thừa kế theo luật sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế, phải là người đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.‌

3.2. Về vấn đề hình thức của di chúc

3.2.1. Về việc từ chối nhận di sản của người thừa kế

Điều 642 Bộ luật Dân sự quy định về quyền từ chối nhận di sản của người thừa kế. Tuy nhiên, Điều 642 Bộ luật Dân sự không quy định về thủ tục từ chối cũng như hình thức thông báo việc từ chối nhận di sản. Người thừa kế có thể bằng văn bản do mình tự lập ra để từ chối nhận di sản, đồng thời họ có thể chỉ thông báo bằng miệng cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, Công chứng Nhà nước, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.

Ngoài ra, khoản 3 Điều 642 Bộ luật Dân sự quy định: "Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế" [17] là không phù hợp với trường hợp thừa kế theo di chúc. Để tránh trường hợp người thừa kế từ chối quyền nhận di sản phủ nhận việc từ chối đó đồng thời để phù hợp với cả hai phương thức thừa kế theo luật và thừa kế theo di chúc, Điều 642 Bộ luật Dân sự cần quy định lại như sau:

Điều 642. Từ chối nhận di sản

1- Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.

2- Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế. Người từ chối phải gửi văn bản từ chối cho cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.


3- Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế đối với thừa kế theo pháp luật, là sáu tháng kể từ ngày công bố di chúc đối với thừa kế theo di chúc. Sau sáu tháng, nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế.

3.2.2. Về sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ đối với việc lập di chúc của người tròn mười lăm tuổi nhưng chưa đủ mười tám tuổi

Pháp luật dân sự nước ta quy định cho những người chưa thành niên được quyền lập di chúc, nhưng vì nhận thức của họ còn hạn chế nên khoản 2 Điều 647 Bộ luật Dân sự đã quy định việc lập di chúc của những người này phải có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 647 Bộ luật Dân sự chưa quy định cụ thể việc đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ là đồng ý về việc lập di chúc hay đồng ý về sự định đoạt trong nội dung của di chúc. Quy định tại khoản 2 Điều 647 Bộ luật Dân sự không những chưa chặt chẽ mà còn thiếu những nội dung quan trọng là căn cứ để xác định hiệu lực của di chúc, được thể hiện ở những yếu tố sau: Khoản 2 Điều 647 Bộ luật Dân sự chỉ quy định về độ tuổi của cá nhân có thể lập di chúc mà không quy định năng lực trí tuệ của người ở độ tuổi từ mười lăm đến chua đủ mười tám.

Việc cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý cho người từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi lập di chúc còn thiếu những quy định cần thiết, đó là:

- Thời điểm mà cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý thì sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ cho người lập di chúc ở độ tuổi từ đủ mười lăm đến dưới mười tám tuổi được thể hiện trước khi người con lập di chúc hay sau khi, hay trong khi con đang lập di chúc? Hay cả ba thời điểm mà sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ cho người ở độ tuổi này lập di chúc đều có giá trị pháp lý? Hay sự đồng ý đó chỉ được thừa nhận vào thời điểm trước khi di chúc được lập ra?


- Hình thức đồng ý của cha, mẹ, hoặc người giám hộ cho người từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi lập di chúc đã không được điều luật quy định, vì thế không tránh khỏi có những cách hiểu khác nhau về hình thức đồng ý có được thể hiện bằng văn bản riêng hay chỉ cần có bút tích của cha, mẹ hoặc người giám hộ vào bản di chúc?

Vì vậy, vấn đề đặt ra là cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần ban hành văn bản để điều luật được áp dụng một cách thống nhất, thật sự đảm bảo quyền tự định đoạt trong việc lập di chúc của người chưa thành niên. Việc hướng dẫn có thể theo hướng sau:

- Sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ là ý kiến của họ về việc cho hay không cho người tròn mười lăm tuổi nhưng chưa đủ mười tám tuổi lập di chúc. Vì vậy, ý kiến của những người nói trên phải được thể hiện trong một văn bản riêng và phải được thể hiện trước khi di chúc được lập.

- Nếu di chúc đã được lập mà cha, mẹ hoặc người giám hộ của người lập di chúc tuy biết nhưng không có ý kiến gì thì coi như họ đã đồng ý cho lập di chúc và vì vậy di chúc đó sẽ được coi là hợp pháp.

- Nếu cha, mẹ hoặc người giám hộ không đồng ý việc lập di chúc của những người chưa đủ mười tám tuổi sau khi đã nắm bắt được nội dung của di chúc, vì sự định đoạt trong nội dung của di chúc ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người không đồng ý, thì di chúc đó vẫn được coi là có hiệu lực pháp luật.

3.2.3. Đối với di chúc có chữ viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu

Khoản 2 Điều 653 Bộ luật Dân sự quy định: "Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu" [17], mục đích là nhằm hướng dẫn người lập di chúc không nên dùng chữ viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu để hạn chế sự tranh cãi giữa những người thừa kế về sau này.

Tuy nhiên, quy định trên vẫn có thể được hiểu là: Nếu di chúc viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu sẽ không có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần ban hành văn bản để hướng dẫn quy định trên theo hướng sau:


- Nếu chữ viết tắt, viết bằng ký hiệu trong di chúc được tất cả những người thừa kế cùng thống nhất hiểu theo một nghĩa thì việc viết tắt, viết bằng ký hiệu đó không ảnh hưởng đến hiệu lực của di chúc.

- Nếu những người thừa kế không nhất trí về cách hiểu chữ viết tắt, viết bằng ký hiệu thì phần di chúc liên quan đến chữ viết tắt, viết bằng ký hiệu không có hiệu lực pháp luật và phần di sản liên quan được dịch chuyển cho người thừa kế theo quy định của pháp luật.

3.2.4. Về người làm chứng

Trong thực tế có những người trong diện được hưởng thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc đã công nhận người để lại di sản có di chúc viết hoặc di chúc miệng cho người khác được hưởng di sản (họ công nhận với tư cách là người làm chứng và nội dung của di chúc không mang lại lợi ích cho họ, chứng tỏ việc làm chứng đó là rất khách quan). Vì vậy, Điều 654 Bộ luật Dân sự cần sửa đổi bổ sung như sau:

Điều 654. Người làm chứng cho việc lập di chúc

Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:

1- Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc, mà việc làm chứng nhằm đem lại lợi ích cho mình;

2- Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;

3- Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi

dân sự.


3.2.5. Về di chúc bằng văn bản không có người làm chứng

Điều 655 Bộ luật Dân sự quy định "Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc" [17] là không phù hợp với thực tế cuộc sống và không có tính khái quát. Vì vậy, Điều 655 Bộ luật Dân sự cần được sửa đổi như sau:


Điều 655. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng

Người lập di chúc phải ký, ghi rò họ, tên hoặc điểm chỉ rò ràng vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 653 của Bộ luật này.

3.2.6. Về di chúc có chứng nhận của công chứng Nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn

Điều 657 Bộ luật Dân sự chỉ quy định việc chứng nhận của công chứng Nhà nước hoặc của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng thực vào bản di chúc, do người lập di chúc lập ra, mà chưa đề cập trường hợp công chứng viên hoặc người có thẩm quyền của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn ghi lại lời di chúc của người để lại di sản đã được quy định ở Điều 658 Bộ luật Dân sự.

Do đó, nên bổ sung thêm vào Điều 658 Bộ luật Dân sự. Điều 657. Di chúc có công chứng hoặc chứng thực

1- Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực bản di chúc.

2- Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng viên hoặc người có thẩm quyền của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn lập tờ di chúc cho mình và chứng nhận hoặc chứng thực vào tờ di chúc đó.

Thực tế xét xử ở Tòa án cho thấy, việc chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực thường được diễn ra trong mấy trường hợp sau đây:

- Người có tài sản lập di chúc, sau đó người thân của họ cầm tờ di chúc đến Ủy ban nhân dân, có một số ít trường hợp đến phòng Công chứng đề nghị người có thẩm quyền.

- Người có tài sản sau khi lập di chúc đã trực tiếp cầm tờ di chúc đến Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc phòng Công chứng đề nghị người

Xem tất cả 101 trang.

Ngày đăng: 26/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí