Các Công Trình Nghiên Cứu Ở Trong Nước Về Quan Hệ Lao Động


(SPT - Social partnership theory).

- Nghiên cứu vềbản chất của quan hệ lao động

Bên cạnh việc nghiên cứu khái niệm của quan hệ lao động còn có nhiều nhà nghiên cứu bàn luận đến bản chất của QHLĐ thông qua công trình nghiên cứu của họ. Một số những nhà khoa học tiếp tục lý giải sâu hơn bản chất kinh tế trong QHLĐ như là khởi nguồn của các phong trào đấu tranh giai cấp. Điển hình phải kể đến C.Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin. Các nhà nghiên cứu đã sống trong chế độ tư bản, một xã hội điển hình của QHLĐ giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân. Họ đã tìm ra được bản chất của chế độ tư bản, thực trạng lao động và đời sống công nhân trong chế độ tư bản. Trong rất nhiều tác phẩm, các ông đã xây dựng hệ thống lý luận chặt chẽ và hoàn hảo về tổ chức lao động trong xã hội tư bản; một mặt để giúp giai cấp công nhân nhận thức đúng đắn về sứ mạng lịch sử của mình trong xã hội tư bản; mặt khác, cũng vạch ra cho giai cấp tư sản thấy tính hai mặt của nó trong quản lý và phát triển xã hội: Một mặt làm tăng nhanh lực lượng sản xuất trong xã hội, mặt khác lại làm bần cùng hóa những động lực cơ bản của sản xuất xã hội là NLĐ. Các hệ thống lý luận này liên quan trực tiếp đến QHLĐ giữa nhà tư sản và người công nhân trong sản xuất.

Một trong những hệ thống lý luận này của C.Mác, Ph. Ăngghen và V.I.Lênin là hệ thống lý luận về chế độ làm công ăn lương của người công nhân và thuê nhân công của nhà tư bản. Thông qua hệ thống lý luận này, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra bản chất của QHLĐ và sự xuất hiện các cuộc đình công, bãi công của NLĐ trong xã hội tư bản.

Mác, trong Bản thảo kinh tế những năm (1861-1863), ông cho rằng: Quá trình tích lũy tư bản là điều kiện của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và ông đã chỉ ra 3 xu hướng chủ yếu phát triển QHLĐ giữa nhà tư bản và công nhân làm thuê:

- Một là: với ĐKLĐ làm thuê “Vĩnh viễn” cho giai cấp tư sản, người công nhân cũng “Vĩnh viễn” ở vào địa vị làm thuê.

- Hai là: tích lũy tư bản càng làm tăng thêm của cải cho nhà tư bản bao nhiêu thì càng khiến tình cảnh người công nhân trở nên khó khăn bấy nhiêu.

- Ba là: do các ĐKLĐ với hình thức ngày càng đồ sộ và càng trở thành một lực lượng xã hội đối lập với công nhân đơn lẻ, công nhân không còn khả năng tự


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 199 trang tài liệu này.

mình chiếm hữu những ĐKLĐ như trong nền sản xuất nhỏ trước đây.

- Nghiên cứu vềnội dung của quan hệ lao động

Quan hệ lao động trong các doanh nghiệp sản xuất ô tô có vốn đầu tư Nhật Bản tại Việt Nam - 4

Tác phẩm kinh điển “Bàn về bãi công” nổi tiếngcủa Lênin thể hiện rất rò QHLĐ thời kỳ kinh tế tư bản. Thông qua bãi công, ông đã chỉ ra 4 vấn đề cơ bản liên quan đến QHLĐ:

- Một là: ý nghĩa của các cuộc bãi công trong phong trào công nhân nói chung.

- Hai là: các đạo luật Nga chống bãi công.

- Ba là: vấn đề các cuộc bãi công ở Nga đã và đang tiến hành, sau đó là thái độ của NLĐ trong các cuộc bãi công.

Nguyên nhân của sự bất hòa trong QHLĐ đã được các nhà nghiên cứu như C.Mác, Ph. Ăngghen chỉ ra: tiền công giảm trong khi chủ xưởng thuê không chịu tăng lương; người công nhân mong muốn sửa đổi pháp luật bởi lẽ pháp luật do chính giai cấp tư sản đặt ra, được ban bố với sự đồng ý của họ, để bảo vệ và làm lợi cho họ. Tức là bảo vệ cho giai cấp công nhân. Như vậy, theo Mác: một trong những nội dung của QHLĐ chính là vấn đề tiền công, tiền lương và giải quyết các TCLĐ giữa chủ và thợ.

Theo như nghiên cứu của David Macdonald and Caroline Vardenabeele (1996), nội dung cuả QHLĐ trong DN là các vấn đề liên quan đến hợp đồng lao động (HĐLĐ), đến tiền lương, thu nhập và các ĐKLĐ và các đảm bảo phúc lợi xã hội cho NLĐ.

Từ thời kỳ đầu năm 1990, một số nước như Hungary, Tiệp Khắc, Ba Lan (nướcxã hội chủ nghĩa cũ ở Đông Âu) đã bắt đầu chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Cùng tại thời điểm này, một số nước như Trung Quốc, Hàn Quốc, Malaysia, Đài Loan, Singapore, Thái Lan (khu vực Đông Á và Đông Nam Á) cũng đang gấp rút hoàn thiện các thể chế thị trường; Với sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), ILO, ADB... nhiều công trình nghiên cứu mang tính thực tiễn về QHLĐ ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi đã được tiến hành [144].

Đến nay, quan điểm được coi là toàn thiện nhất, công nhận rộng rãi nhất về QHLĐ phổ biến được sử dụng là quan điểm của David Macdonald and Caroline Vardenabeele (1996), đại diện ILO (ILO), đã cho rằng nội dung của QHLĐ là “những mối quan hệ cá nhân và tập thể giữa những NSDLĐ tại nơi làm việc,


cũng như các mối quan hệ giữa các đại diện của họ với Nhà nước. Những mối quan hệ như thế xoay quanh các khía cạnh pháp luật, kinh tế, xã hội họ, tâm lý học và bao gồm cả những vấn đề như tuyển mộ, thuê mướn, sắp xếp công việc, đào tạo, kỷ luật, thăng chức, buộc thôi việc, kết thúc hợp đồng, làm ngoài giờ, tiền thưởng, phân chia lợi nhuận, giáo dục, y tế, vệ sinh, giải trí, chỗ ở, giờ làm việc, nghỉ ngơi, nghỉ phép, các vấn đề để phúc lợi cho người thất nghiệp, ốm đau, tai nạn, tuổi cao và tàn tật”[116]. Ngoài việc chỉ ra chủ thể của QHLĐ, các loại QHLĐ, sự tham gia của đại diện NLĐ, đại diện NSDLĐ, mối quan hệ của QHLĐ với những quan hệ khác thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội… các chuyên gia chỉ rò những nội dung rất cụ thể của quan hệ này.

Sau khi phân tích một số nghiên cứu trên cho thấy, QHLĐ ở nước ngoài đã được quan tâm sâu sắc. QHLĐ có vai trò đặc biệt quan trong mối quan hệ giữa NSDLĐ và NLĐ. Ngoài ra còn có sự đóng góp của Chính phủ. QHLĐ tốt là biểu hiện của sự hài hòa lợi ích các bên tham gia. Đóng góp không nhỏ vào sự phát triển nền kinh tế, giải quyết được các vấn đề xã hội như: giải quyết việc làm, giảm thiểu các tệ nạn xã hội, nâng cao nhận thức cho NSDLĐ, NLĐ....

Từ những nghiên cứu trên cho thấy, QHLĐ phản ánh mối quan hệ đặc biệt vì có những phạm trù có nội hàm rộng. Mối quan hệ này vừa mang bản chất xã hội, bản chất kinh tế và lại vừa bị chi phối bởi quan hệ luật pháp.

1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước về quan hệ lao động

Về các khái niệm, bản chất, nội dung của quan hệ lao động

- Nghiên cứu vềkhái niệm của quan hệ lao động

Trong hoạt động sản xuất của DN, QHLĐ là một nội dung quan trọng đã được nghiên cứu ở nhiều quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển; được sử dụng trong việc xây dựng chính sách, pháp luật về lao động, tổ chức và quản lí lao động cũng như giải quyết các vấn đề phát sinh, kể cả giải quyết TCLĐ và đình công. Với các nước có nền kinh tế thị trường đang phát triển như Việt Nam thì QHLĐ trong DN là vấn đề quan trọng, đang từng bước được hoàn thiện. Nghiên cứu về QHLĐ trong DN là việc làm cần thiết và tất yếu cho những quốc gia đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa như nước ta hiện nay.

Ở Việt Nam, vấn đề QHLĐ đã được một số tác giả nghiên cứu ngay từ khi có


chủ trương Đổi mới như: luận án “Đổi mới QHLĐ trong quá trình hình thành nền kinh tế thị trường Việt Nam” của Lê Văn Minh (1994), luận án “Hoàn thiện QHLĐ trong các DN có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam” của Nguyễn Ngọc Quân (1995). Tuy nhiên, phải đến năm 2002 vấn đề QHLĐ trong nền kinh tế thị trường mới thực sự được các nhà nghiên cứu và cán bộ quản lý quan tâm. Đó là lúc các cuộc đình công tự phát của công nhân xuất phát từ một số khu công nghiệp (KCN) phía Nam và bắt đầu lan rộng. Các công trình nghiên cứu từ thời kỳ này đã bắt đầu có cách tiếp cận mới về QHLĐ.

Năm 2008, “Giáo trình QHLĐ” của Nguyễn Tiệp là giáo trình đầu tiên được biên soạn và giảng dạy cho bậc đại học ở Việt Nam.

Theo Bộ Luật lao động (BLLĐ) 2012, cũng đã đề cập đến QHLĐ là những phát sinh quan hệ xã hội trong việc thuê mướn, sử dụng lao động, trả lương giữa NLĐ và NSDLĐ. QHLĐ do nhiều chủ thể tương tác với nhau, gồm: NLĐ và tổ chức đại diện của NLĐ, NSDLĐ và tổ chức đại diện của NSDLĐ, cơ quan nhà nước.

Một nghiên cứu rất đáng chú ý trong thời gian gần đây, đó là cuốn “Báo cáo QHLĐ ở Việt Nam 2017” (Bộ Lao động Thương binh và Xã hội-MOLISA, ILO, 2018), trong đó đã nêu khái niệm: “QHLĐ là quan hệ giữa NLĐ, tập thể NLĐ với NSDLĐ và tổ chức đại diện NSDLĐ, được xác lập trên cơ sở pháp luật lao động bao gồm các tiêu chuẩn về lao động, cơ chế xác lập và vận hành QHLĐ, thiết chế giải quyết TCLĐ, vai trò của các bên trong QHLĐ”.

Dù cách tiếp cận của các nhà khoa học không hoàn toàn giống nhau, nhưng có thể nhận thấy các quan điểm này đều chỉ ra rằng trong QHLĐ có quan hệ xã hội.

Sau khi nghiên cứu, tham khảo một số nhà khoa học, chuyên gia như tác giả David Macdonald and Caroline Vardenabeele (1996), Loic Candin và (MOLISA, ILO, 2018) đã được trình bày, NCS đưa ra khái niệm về QHLĐ tại DN như sau:

QHLĐ là mối quan hệ giữa NLĐ và tập thể NLĐ với NSDLĐ và tổ chức đại diện NSDLĐ được xác lập trong quá trình lao động trên cơ sở pháp luật lao động hiện hành và thông qua việc tiến hành thỏa thuận, thương lượng theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau để thực


hiện đầy đủ những điều các bên đã cam kết.

- Nghiên cứu vềbản chất của quan hệ lao động

QHLĐ là mối quan hệ đặc biệt vì có nội hàm rộng. Mối quan hệ như vậy vừa mang bản chất kinh tế, vừa mang bản chất xã hội, vừa bị chi phối bởi luật pháp. Vì vậy khoa học về QHLĐ nằm trong vùng giao nhau giữa nhiều môn khoa học như: kinh tế, xã hội, tâm lý, luật pháp và chính trị.

Trong một DN, QHLĐ sự là tổng hòa các mối quan hệ giữa NLĐ với NSDLĐ. Mối quan hệ này thường xoay quanh các điều kiện liên quan đến lao động như: tiền lương, tiền công, tiền thưởng, thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi, thời gian làm thêm giờ và các điều kiện vệ sinh an toàn lao động tại nơi làm việc…

QHLĐ thể hiện sự tương tác giữa các bên tham gia trong quá trình lao động như: NLĐ (hay đại diện NLĐ) và NSDLĐ (hay đại diện NSDLĐ) về QHLĐ ở cấp DN hoặc cấp ngành; với mục đích bảo đảm hài hòa lợi ích của các bên, còn gọi là quan hệ hai bên. Để vận hành quan hệ hai bên ở cấp DN hoặc cấp ngành đượng thông qua cơ chế hai bên.

Các chủ thể QHLĐ tương tác thông qua cơ chế tham vấn, đối thoại, thương lượng tạo thành cơ chế vận hành của QHLĐ. Trong đó có cơ chế hai bên (NLĐ, đại diện của NLĐ với NSDLĐ; đại diện của NLĐ với đại diện NSDLĐ) và cơ chế ba bên (Nhà nước - đại diện NSDLĐ - đại diện của NLĐ).

Cơ chế ba bên được hình thành trên cơ sở tương tác giữa Chính phủ với tổ chức đại diện NLĐ và tổ chức đại diện NSDLĐ, trong đó Chính phủ có vai trò chính trong việc tham vấn ý kiến của các bên về những vấn đề liên quan đến việc xây dựng, ban hành các chính sách pháp luật về QHLĐ; đối thoại để giải quyết những vướng mắc cũng như hỗ trợ các bên trong việc thực hiện các quy định của pháp luật lao động, xây dựng QHLĐ hài hòa. Cơ chế ba bên được hình thành ở cấp quốc gia và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Cơ chế hai bên được hình thành trên cơ sở tương tác giữa NLĐ, tổ chức đại diện của NLĐ với NSDLĐ động trong phạm vi DN hoặc giữa tổ chức đại diện của NLĐ với tổ chức đại diện của NSDLĐ trong phạm vi ngành thông qua cơ chế đối thoại, thương lượng, thỏa thuận để giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của cả hai bên, xây dựng QHLĐ hài hòa, ổn định tiến bộ.


Trong số các nghiên cứu về QHLĐ còn có giáo trình “Xây dựng QHLĐ hài hòa ổn định, tiến bộ trong DN ở Việt Nam” của trường Đại học Công đoàn (2011). Xây dựng QHLĐ hài hòa, ổn định và tiến bộ trong DN chính là điểm căn bản để đảm bảo lợi ích hợp pháp giữa chủ thể tham gia trong quá trình lao động, sản xuất, kinh doanh. Đây là nhiệm vụ hết sức to lớn và nặng nề, đòi hỏi phải có sự chỉ đạo tập trung và đồng bộ trong việc hoàn thiện từ hệ thống pháp luật đến việc kiện toàn và đẩy mạnh sự hỗ trợ của các thiết chế và nâng cao vai trò, trách nhiệm của các bên.

Nghiên cứu về các nội dung cụ thể của quan hệ lao động

Các mối quan hệ qua lại giữa các bên tham gia QHLĐ được thể hiện rò thông qua nội dung QHLĐ. Trong phạm vi luận án nghiên cứu QHLĐ qua việc giao kết và thực hiện HĐLĐ; thương lượng, ký kết và đăng ký thoả ước lao động tập thể (TƯLĐTT); Điển hình là luận án “Một số vấn đề về QHLĐ tại các DN ngoài quốc doanh và DN có vốn đầu tư nước ngoài” của Vũ Việt Hằng (2004), “Đình công và QHLĐ ở Việt Nam” của Chang – Hee – Lee và Simon Clarke; Lê Mạnh Hà (2008) với bài viết “Đình công và QHLĐ ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp”; Nguyễn An Ninh (2008) có tác phẩm “Xu hướng công nhân hóa ở nước ta hiện nay”; Đặng Quang Định (2010) nghiên cứu về lợi ích kinh tế giữa công nhân và nông dân và trí thức ở Việt Nam hiện nay; tác giả Lê Thanh Hà (2012) nghiên cứu“QHLĐ trong các DN có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam và vai trò của CĐCS”; Lê Thị Mai (2017) cũng đã nghiên cứu“Xung đột và giải pháp giảm thiểu xung đột trong QHLĐ tại DN ở Việt Nam” - tác giả cho rằng một trong những yếu tố quyết định sự thành công tại DN là giải quyết tốt mối QHLĐ....

Theo Nguyễn Tiệp, trường Đại học Lao động xã hội cho rằng: “QHLĐ là hệ thống các mối quan hệ giữa các cá nhân hay tổ chức đại diện của NLĐ với các cá nhân hay tổ chức đại diện của NSDLĐ hoặc giữa các tổ chức đại diện của họ với Nhà nước và các chủ thể khác. Những mối quan hệ này diễn ra xoay quanh quá trình thuê mướn lao động nhằm đảm bảo sự hài hoà và ổn định về lợi ích của các bên liên quan” [85].

Theo nghiên cứu của MOLISA-ILO (2018), nội dung QHLĐ bao gồm quan hệ về việc làm, tiền lương, ĐKLĐ, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, bảo hiểm xã hội (BHXH), kỷ luật lao động, quyền và nghĩa vụ của các bên, giải quyết tranh chấp


lao động (GQTCLĐ)...

Trong giai đoạn này, nhiều đề tài cấp nhà nước, đề tài cấp bộ, các dự án liên quan đến QHLĐ và đối thoại xã hội (ĐTXH) đã được thực hiện và từng bước thay đổi trong nhận thức của các bên về QHLĐ trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, các công trình này lại chú trọng quá nhiều vào các tiêu chuẩn lao động cụ thể, chưa nghiên cứu sâu về năng lực, thái độ giữa các chủ thể và càng chưa phân tích kỹ cơ chế tương tác giữa các bên trong QHLĐ ở DN và đặc biệt là đối với các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Do đó, có rất nhiều các hướng nghiên cứu xoay quanh QHLĐ được đề cập đến.

- Nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lao động

Bên cạnh việc nghiên cứu các vấn đề về khái niệm, bản chất, nội dung của QHLĐ còn có một số nhà nghiên cứu tìm hiểu sâu về các nhân tố ảnh hưởng đến QHLĐ.

Hiện nay các nghiên cứu về vấn đề này còn rải rác, nhưng có thể nêu một số nghiên cứu của Trần Văn Hoan và Nguyễn Bá Ngọc đã phân tích về các nhân tố ảnh hưởng đến QHLĐ. Tuy nhiên về các nhân tố này được khái quát hơn trong báo cáo của MOLISA-ILO (2018), bao gồm các nhân tố về phát triển kinh tế (kinh tế thị trường, đầu tư nước ngoài, phát triển TTLĐ...); quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa ở Việt Nam, chất lượng NNL; năng lực cạnh tranh của các DN...

Một nghiên cứu khác QHLĐ trong bối cảnh Hội nhập của Đặng Thị Hải Hà (2019) “Vấn đề kinh tế hơn là xã hội” đã chỉ ra việc Việt Nam tham gia vào các FTA, nhất là các hiệp định thế hệ mới như CPTPP, EVFTA... tác động không nhỏ đến QHLĐ ở Việt Nam nhưng chưa được nghiên cứu thấu đáo như vấn đề đại diện NLĐ ở cơ sở, thỏa ước lao động tập thể, đối thoại...Tác giả đã chỉ ra, khi ký kết các FTA, sẽ tác động rất lớn đến những vấn đề cốt lòi trong QHLĐ như vấn đề thương lượng tập thể; vấn đề giải quyết TCLĐ, vấn đề thanh tra lao động, vấn đề tổ chức đại diện của NLĐ...

1.3. Khoảng trống trong các nghiên cứu và hướng nghiên cứu của luận án

1.3.1. Khoảng trống trong các nghiên cứu

Tổng quan các công trình nghiên cứu của một số tác giả trong và ngoài nước, tác giả nhận thấy:


- Thứ nhất là: Có rất nhiều cách tiếp cận nghiên cứu về QHLĐ, theo phạm vi rộng, hẹp khác nhau. Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu cho rằng QHLĐ là mối quan hệ giữa 2 đối tượng đó là: NLĐ, NSDLĐ trong phạm vi DN và chỉ liên quan đến vấn đề lao động.

- Thứ hai là: Các công trình trước đây tập trung nhiều về lý luận TCLĐ và đình công nhưng chưa phân tích sâu chất lượng nguồn nhân lực làm việc trong các DN FDI nói chung và DN sản xuất ô tô có vốn đầu tư Nhật Bản nói riêng. Hơn nữa các công trình chưa đi sâu phân tích những nguyên nhân sâu xa dẫn đến TCLĐ và đình công.

- Thứ ba là: Các nghiên cứu về QHLĐ thường đứng trên quan điểm của NLĐ mà ít quan tâm đến quan điểm của NSDLĐ để đưa ra những giải pháp cải thiện mối QHLĐ. Cụ thể là nghiên cứu sự cân bằng nhu cầu các bên liên quan.

- Thứ tư là: Theo tác giả, một số giải pháp xây dựng mối QHLĐ không chỉ nhằm đáp ứng các yêu cầu, đòi hỏi QHLĐ hiện tại mà quan trọng hơn cần phải nghiên cứu các giả thuyết về QHLĐ xảy ra không như hiện tại (có thể mang tính tích cực hơn hoặc tiêu cực) thì việc vận dụng linh hoạt, uyển chuyển các phương pháp khác nhau giúp QHLĐ luôn ổn định và phát triển. Nhưng các công trình nghiên cứu trước đây ít đề cập đến. Đặc biệt chưa có các nghiên cứu thấu đáo các nhân tố tác động/ảnh hưởng đến QHLĐ trong bối cảnh hội nhập.

- Thứ năm là: QHLĐ trong các DN sản xuất ô tô có vốn đầu tư Nhật Bản tại Việt Nam hiện chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện.

Trên đây là những vấn đề mà luận án sẽ tập trung làm sáng tỏ.

1.3.2. Hướng nghiên cứu của luận án

Tác giả sẽ tập trung vào nghiên cứu sâu:

- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về QHLĐ trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là các nội dung, các nhân tố ảnh hưởng đến QHLĐ. Luận án sẽ tiếp cận QHLĐ trong phạm vi DN và cũng không chỉ tập trung vào hai đối tượng là NLĐ và NSDLĐ mà cả những đối tượng khác có liên quan, ví dụ như tổ chức công đoàn, các cơ quan QLNN.

- Nghiên cứu kinh nghiệm duy trì, phát triển QHLĐ thông qua các bản TƯLĐTT, thông qua việc kiểm soát đình công tại một số địa điểm (trong nước,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/07/2022