định ý thức con người… là những nhận định tương đối toàn diện đầu tiên về văn học dân gian. Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ dù không phải là công trình đầu tiên nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn Nguyễn Công Trứ (trước đó Lê Thước đã xuất bản công trình Sự nghiệp và thi văn của Uy Viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ (1928)), nhưng cũng chính Nguyễn Bách Khoa là người đầu tiên áp dụng phương pháp nghiên cứu mới của phương Tây (phương pháp xã hội học) vào việc nghiên cứu tác giả này. Phê bình và cảo luận của Thiếu Sơn được xem là tác phẩm đầu tiên nghiên cứu có phương pháp và quan điểm rò ràng nhất từ trước đến nay. Trần Thanh Mại với Trông giòng sông vị và Hàn Mặc Tử cũng là những công trình nghiên cứu đầu tiên về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của Trần Tế Xương và Hàn Mặc Tử theo phương pháp tiểu sử khách quan. Điều này cho phép chúng ta khẳng định vai trò tiên phong và những nỗ lực của các nhà nghiên cứu trong quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX.
Cùng với việc nghiên cứu tác giả, tác phẩm; hoạt động nghiên cứu văn học sử ra đời muộn hơn (sau năm 1940), nhưng có thể nói, trong toàn bộ đời sống văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX thì hoạt động nghiên cứu văn học sử là khá nổi bật (với việc không chỉ nghiên cứu từng giai đoạn văn học mà còn nghiên cứu cả nền văn học dân tộc); và cùng với hoạt động sáng tác, nó đã góp phần đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa nền văn học nước nhà. Những công trình nghiên cứu văn học sử của Ngô Tất Tố, Nguyễn Đổng Chi, Vũ Ngọc Phan, Dương Quảng Hàm cho ta thấy rò từng bước đi của quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học sử nửa đầu thế kỷ XX mà tập trung chủ yếu vào những năm đầu của thập kỷ 40.
Tiếp thu các quan niệm học thuật nước ngoài để đề ra các quan niệm văn học mới là một trong những thành công của hoạt động nghiên cứu lý luận
văn học. Khác với quan niệm lấy “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ ngôn chí” của tác phẩm văn chương làm mục tiêu và đối tượng mang tính nhất quán (tính phi ngã) của phẩm bình văn học thời trung đại; cuộc tranh luận “nghệ thuật vị nghệ thuật” hay “nghệ thuật vị nhân sinh” đã nêu ra một số quan niệm lý luận văn học mới về bản chất của văn học theo quan điểm thống nhất giữa nội dung và nghệ thuật. Quan điểm này đã được Đặng Thai Mai nghiên cứu tương đối toàn diện trong công trình Văn học khái luận (1944).
Góp phần làm phong phú diện mạo của quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX là vai trò của các nhà nghiên cứu đối với mảng văn học nước ngoài. Những bài giới thiệu về văn học Pháp của Phạm Quỳnh; giới thiệu các nhà văn cách mạng tiên tiến của thế giới như Maxime Gorki, Romain Rolland và Henri Barbusse của Hải Triều; nghiên cứu về Tolstoi của Nguyễn Phi Hoanh tuy còn sơ lược, nhưng đã góp phần chứng tỏ sự giao lưu với văn học phương Tây giai đoạn này đã bắt đầu sâu rộng. Công trình Lỗ Tấn (1944) và Văn học Trung Quốc hiện đại, tạp văn (1945) của Đặng Thai Mai đã đi sâu vào những tác giả, tác phẩm, thể loại tiêu biểu của văn học Trung Quốc, từ đó giúp người đọc có cái nhìn tương đối cụ thể, đầy đủ về lịch sử và văn học của nước này.
Tóm lại, sự vận động của quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, cho ta thấy được bước đi mang tính quy luật qua từng chặng đường phát triển. Trong thực tiễn đó là quy luật phủ định của phủ định. Nghĩa là, cái sau thường phủ định cái trước đó, vì cái sau thường tiếp biến cái trước và vận dụng các phương pháp, có nhiều nét mới mẻ hơn (tất nhiên, bất kỳ một quy luật nào cũng phát triển dích dắc chứ hoàn toàn không thể là đường thẳng), cho nên, thi thoảng vẫn có những công trình xuất hiện sau vì quá khẳng định cái mới, nên lại phần nào “phủ định sạch trơn” và
Có thể bạn quan tâm!
- Quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX - 16
- Nghiên Cứu Văn Học Nước Ngoài - Thành Tựu Và Hạn Chế
- Nghiên Cứu Lý Luận Văn Học - Thành Tựu Và Hạn Chế
- Quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX - 20
- Quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX - 21
- Quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX - 22
Xem toàn bộ 227 trang tài liệu này.
không đạt được thành công như những công trình trước đó. Đây cũng là một quy luật thường xảy ra trong quá trình tiến hóa của một sự vật, hiện tượng. Khi đã “cố tình” khẳng định cho cái mới thì thường hay phủ nhận (có tính cực đoan để lý giải cho cái mới của mình) những cái trước đó, đặc biệt là trong lĩnh vực nghiên cứu văn học - lĩnh vực mà nhiều khi yếu tố cảm tính và sự chủ quan lại khá nặng nề. Chính quy luật này đã thể hiện rò quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX là đi dần từ chỗ sơ khai, chưa hoàn thiện đến từng bước hoàn thiện của một quá trình.
Chương 3 - NHỮNG ĐỔI MỚI VỀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Cũng như quá trình tiếp thu các chủ nghĩa, trào lưu sáng tác phương Tây trong hoạt động sáng tác văn học, việc tiếp thu các phương pháp nghiên cứu ở giai đoạn này cũng diễn ra một cách tương tự. Nghĩa là, các nhà nghiên cứu Việt Nam tiếp thu cùng một lúc nhiều phương pháp khác nhau chứ không phải tiếp thu đơn lẻ từng phương pháp theo trình tự xuất hiện của nó ở phương Tây. Nếu ở hoạt động sáng tác, các nhà thơ, nhà văn Việt Nam cùng một lúc tiếp thu cả chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa biểu hiện... để làm nên tính đa dạng và phong phú trong tiến trình hiện đại hóa sáng tác văn học đầu thế kỷ XX, khiến cho chỉ trong vòng 12 năm (1932 - 1945), văn học Việt Nam đã đi trọn con đường mà văn học Pháp phải trải qua gần 100 năm; thì trong hoạt động nghiên cứu văn học cũng thế. Việc tiếp thu cùng một lúc nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau đã khiến một số công trình nghiên cứu giai đoạn này bước đầu đã manh nha lối nghiên cứu liên phương pháp. Chẳng hạn: phương pháp so sánh, phương pháp trực giác, phương pháp xã hội học… trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân; phương pháp xã hội học, phương pháp phân tâm học trong các công trình nghiên cứu về Truyện Kiều và Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ của Nguyễn Bách Khoa… Và cũng cần nói thêm rằng trong giai đoạn này không phải chỉ có năm phương pháp như chúng tôi tìm hiểu mà còn nhiều phương pháp khác được các nhà nghiên cứu áp dụng như: phương pháp phân tâm học, phương pháp phong cách học, phương pháp thể loại… Tuy nhiên, để dễ dàng nhận ra thành tựu trong việc tiếp thu và áp dụng từng phương pháp trong nghiên cứu văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX, ở đề tài này, chúng tôi xin được tiến hành nghiên cứu thành tựu trong việc vận dụng từng phương pháp của các tác giả, tác phẩm tiêu biểu góp
phần vào quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
3.1. Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu
Trong việc tiếp nhận và vận dụng các phương pháp nghiên cứu văn học của phương Tây, các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam hầu như đã tiếp thu toàn bộ các phương pháp mà giới nghiên cứu văn học các nước đã từng áp dụng. Trong phạm vi giới hạn số trang của một luận án, chúng tôi xin được chọn ra năm phương pháp nổi bật, có được nhiều thành tựu nhất để nghiên cứu và phân tích.
3.1.1. Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh là một phương pháp đã xuất hiện từ lâu trong nghiên cứu khoa học nói chung và trong nghiên cứu văn học nói riêng. Đây là một thao tác tư duy quan trọng trong việc nhận thức sự vật, hiện tượng nhằm phát hiện những điểm tương đồng và khác biệt để chiếm lĩnh bản chất sự vật, hiện tượng. Các tác giả thời trung đại như Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Cao Bá Quát... khi khẳng định cái hay, cái độc đáo của văn học nước mình với Trung Hoa đều có so sánh tác giả văn chương Việt Nam với tác giả văn chương Trung Quốc.
Giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, cùng với ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ, Việt Nam còn chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây. Chính trong sự giao lưu này, văn học Việt Nam đã nhanh chóng hiện đại hóa. Vì vậy, ý thức về việc cần phải có so sánh trong văn học nhằm nhận ra chân lý nghệ thuật ngày càng rò nét. Và so sánh thực sự là một trong những phương pháp rất thành công của hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam trong tiến trình hiện đại hóa của văn học dân tộc giai đoạn này.
Trong các công trình nghiên cứu về Truyện Kiều, các tác giả như Phạm
Quỳnh, Đào Duy Anh, Dương Quảng Hàm đều có sử dụng phương pháp so
sánh. Phạm Quỳnh, trong bài nghiên cứu của mình, ở phần “Cội rễ Truyện Kiều”, tác giả đã dịch cuốn tiểu thuyết Vương Thuý Kiều - nguyên tác của Dư Hoài trong Ngu Sơ tân chí để so sánh với tác phẩm Truyện Kiều, từ đó có cơ sở khẳng định tác phẩm Truyện Kiều có nguồn gốc từ tiểu thuyết Trung Hoa. Phạm Quỳnh cũng đã đem nhân vật Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du so sánh với nhân vật trong tiểu thuyết của “Thái Tây” để khẳng định tài năng của Nguyễn Du trong việc sáng tạo nhân vật. Đào Duy Anh trong Khảo luận về Kim Vân Kiều cũng đã sử dụng phương pháp so sánh để thấy sự giống và khác nhau vế cốt truyện và nhân vật Kiều trong tác phẩm Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du với Ngu Sơ tân chí của Dư Hoài và Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Dương Quảng Hàm khi nghiên cứu về Truyện Kiều của Nguyễn Du, cũng đối chiếu Truyện Kiều với Kim Vân Kiều truyện để khẳng định Nguyễn Du có dựa vào cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Và sau khi so sánh, nhà nghiên cứu đã nhận xét rất xác đáng: dù chịu ảnh hưởng về cốt truyện, nhưng Nguyễn Du không phải là nhà phiên dịch tác phẩm văn xuôi của Trung Hoa ra thành một truyện văn vần của ta. Tác phẩm Truyện Kiều là một công trình sáng tạo đặc sắc.
Vận dụng phương pháp so sánh xuyên suốt sự trình bày bộ mặt, diễn tiến và thành tựu của văn học nước nhà là một trong những thành công về phương pháp nghiên cứu của học giả Dương Quảng Hàm. Bằng cách này, tác giả Việt Nam văn học sử yếu đã chỉ ra được những nhân tố và những nguồn gốc ảnh hưởng bên trong cũng như bên ngoài đã tác động vào sự hình thành và phát triển của nền văn học nước ta như: văn chương bình dân, ảnh hưởng của người Tàu, ảnh hưởng của người Pháp, phép học, phép thi, ngôn ngữ, văn tự; cũng như thấy được những biểu hiện mạnh mẽ của tinh thần độc lập, tự chủ, tự tôn của người Việt trong sáng tạo văn học bên cạnh sự ảnh hưởng của nước ngoài. Ở từng vấn đề nêu ra, Dương Quảng Hàm có những so sánh cụ
thể. Chẳng hạn:
- So sánh ảnh hưởng trên phương diện nội dung và tư tưởng, Dương Quảng Hàm viết phần giới thiệu Tính cách phổ thông của văn chương Tàu và văn chương Việt Nam, trong đó nêu lên những điểm giống nhau về tư tưởng và lời văn như: chú trọng về luân lý, trọng lý tưởng, không vụ tả thực, tôn kính cổ nhân, tính cách cao quí, chú trọng điển cố, âm điệu trong văn chương Việt Nam và Trung Quốc. Tương tự, khi giới thiệu Ảnh hưởng của nền văn mới nước Tàu (Lương Khải Siêu) và nền Pháp học đối với tư tưởng và ngôn ngữ người Nam, Dương Quảng Hàm nêu lên cuộc cách mạng văn học của Tàu và các văn sĩ Tàu có ảnh hưởng đối với sĩ phu nước ta như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu; ảnh hưởng của nền Pháp học về đường luân lý xã hội, học thuật, văn chương, ngôn ngữ, văn tự để thấy bước chuyển mình của văn học nước ta trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX.
- So sánh ảnh hưởng trên phương diện thể loại, Dương Quảng Hàm đã giới thiệu Các thể văn của Tàu và của ta, Thi pháp của Tàu và âm luật của ta, Phép đối và thể phú trong văn Tàu và văn ta để trình bày những thể loại mà văn học Việt Nam tiếp nhận từ văn học Trung Quốc cũng như những biến đổi của các thể loại ấy. Nhà nghiên cứu cũng đã chỉ ra điểm khác biệt cơ bản giữa văn vần Việt Nam và văn vần của Trung Quốc là ở cách gieo vần. Đồng thời, ông cũng giới thiệu các thể loại chỉ có ở nước ta như: truyện Nôm, ngâm, hát nói, ca Huế, hát bội. Dương Quảng Hàm cũng giới thiệu Sự biến hóa các thể văn: Kịch - Phê bình - Văn xuôi - Văn dịch - Văn viết báo để nói về sự ảnh hưởng trên phương diện thể loại của văn học Pháp đối với văn học Việt Nam. Đối với từng thể loại, sau khi nghiên cứu, Dương Quảng Hàm đều có những nhận xét tuy ngắn gọn nhưng bao quát toàn bộ về sự phát triển của nó. Chẳng hạn, bàn về thể phê bình, ông cho rằng: “Thể phê bình là một thể ta mới mượn của Pháp văn. Không phải xưa kia các cụ không hề phê bình, nhưng
các lời phán đoán, khen chê của các cụ chỉ xen vào trong một bài văn hoặc một cuốn sách, chứ chưa hề biệt lập thành một tác phẩm, thành một thể văn riêng. Mãi gần đây, các văn gia mới phỏng theo thể phê bình của người Pháp mà viết các tác phẩm thuộc về thể ấy” [46,tr.413]; hoặc “Trong nền quốc văn mới, văn xuôi là thể văn đã biến hóa và có phần tiến bộ hơn cả, vì thể ấy là thể văn hay dùng đến nhất và được nhiều nhà trứ tác viết đến” [46,tr.416].
- So sánh ảnh hưởng trên phương diện ngôn ngữ văn tự: cùng với việc xác định vị trí của chữ Hán với tư cách là văn tự chính thức và thành tựu văn học viết bằng chữ Nôm ở thời trung đại, Dương Quảng Hàm còn đánh giá cao vai trò của giáo sĩ Alexandre de Rhodes trong quá trình hình thành chữ quốc ngữ. So sánh tiếng Việt với tiếng Tàu, tiếng Pháp, Dương Quảng Hàm cho rằng: tiếng Việt giàu về các từ ngữ cụ tượng nhưng nghèo về các từ ngữ trừu tượng. Ông cũng đã phân tích khá kỹ về mặt nguồn gốc của những từ ngữ tiếng Việt mới xuất hiện mượn của Trung Quốc, Nhật Bản, Pháp, và nhận xét có ba loại như sau: mượn ở chữ Nho, có hai cách lấy chữ cũ dùng theo nghĩa mới và ghép chữ Nho để dịch tiếng nước ngoài; tiếng nôm na do dân chúng đặt ra; phiên âm từ tiếng Pháp. Nhà nghiên cứu cũng lưu ý cách dùng sao cho phù hợp với từng trường hợp cụ thể nhằm đưa tiếng Việt thành một ngôn ngữ chuẩn mực và khoa học.
Không chỉ bàn về ảnh hưởng nhiều mặt trên phương diện ngôn ngữ, văn tự, nội dung, tư tưởng tác phẩm…, Dương Quảng Hàm còn so sánh ảnh hưởng trên phương diện tác giả. Bàn về vấn đề này, ông đã giới thiệu những văn sĩ và thi sĩ Tàu có ảnh hưởng lớn đến văn chương Việt Nam như: Khuất Nguyên, Đào Tiềm, Lý Bạch, Hàn Dũ, Tô Đông Pha, Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi; đồng thời ông cũng giới thiệu các tác giả Việt Nam danh tiếng thời Trung đại như: Hàn Thuyên, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du…và nêu lên những giá trị đích