Những Nghiên Cứu Về Phối Hợp Các Lực Lượng Trong Bồi Dưỡng Gv

xuống 14 giờ/tuần. Nhưng GV phải có 4 giờ/tuần có mặt trong nhà trường để nghiên cứu tài liệu chuẩn bị cho các hoạt đông giảng dạy, đối với thạc sĩ là 3 giờ/tuần tức là 132 giờ/năm. Công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ QLGD được chú trọng [11].

Tác giả xin điểm qua một vài công trình nghiên cứu như sau:

(1) William E. B. (Mỹ) “Handbook for developing competency-based training programs” [24]. (Tạm dịch là: Sổ tay cho việc phát triển các chương trình đào tạo dựa trên năng lực ). Mục đích của cuốn sách này là giúp phát triển có hiệu quả các chương trình giáo dục và đào tạo. Nó dành cho các giảng viên, người làm công tác đào tạo, các nhà nghiên cứu và những người tham gia vào việc đào tạo nghề trong các tổ chức. Cuốn sách này đưa ra những gợi ý làm thế nào để phát triển các chương trình dựa trên năng lực, bao gồm: Mô tả rõ chuẩn đầu ra, sắp xếp chúng một các cẩn thận theo một trình tự. Xây dựng chương trình cẩn thận bằng cách phân loại tài liệu, sắp xếp và tập hợp thành một gói chương trình hoàn chỉnh. Xác định mục tiêu của chương trình là hướng vào việc học của người học chứ không hướng vào hoạt động dạy. Chương trình sẽ đảm bảo rằng người học có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ sau khi tốt nghiệp và tham gia vào hoạt động nghề nghiệp. Chương trình được cá nhân hoá để mỗi người có thể tự hoàn thành công việc bằng cách tìm hiểu nhận thức vấn đề và đề xuất cách giải quyết một vấn đề. Và cuối cùng, có thể đánh giá được hiệu quả đào tạo với từng cá nhân người học, người học cũng có thể tự đánh giá được mức độ đạt được của bản thân so vớimục tiêu của chương trình.

(2) Tác giả Tian Ye (Trung Quốc) đề cập đến chương trình phát triển năng lực cho giảng viên trong các cơ sở giáo dục và đào tạo nghề ở Bắc Kinh - Trung Quốc, đây là một dự án đặc biệt của chính quyền địa phương nhằm mục đích cải thiện việc giảng dạy ở bậc chuyên nghiệp [23]. Trong đó, năng lực thực hành sư phạm của giảng viên được đặc biệt quan tâm. Uỷ ban giáo dục thành phố Bắc Kinh (Trung Quốc) và sở tài chính hợp tác tiến hành các dự án từ năm 2007 đến năm 2010. Chương trình phát triển năng lực bao gồm chín kế hoạch, bao gồm: Đào tạo tại chức, xây dựng đội ngũ giảng viên, xây dựng cơ sở vật chất, tuyển dụng giảng viên trợ giảng, … Chương trình được tiến hành trong tất cả các trường đào tạo kỹ thuật - dạy nghề ở Bắc Kinh để nâng cao chất lượng tổng thể và phát triển giáo dục và đào tạo nghề.

Điểm qua những nghiên cứu trên có thể nhận thấy: đào tạo theo tiếp cận năng lực là một xu hướng được nhiều quốc gia, nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau và ứng dụng vào quá trình dạy học ở các trường đại học, chuyên nghiệp, trường THPT. Tuỳ theo đặc điểm của mỗi quốc gia mà lý thuyết này được thay đổi cho phù hợp.

Qua đó cho thấy các nước trên thế giới, dù là những nước chậm phát triển, nước đang phát triển hay nước phát triển thì công tác bồi dưỡng, phát triển đội ngũ GV được đặc biệt quan tâm.

1.1.1.2. Những nghiên cứu ở trong nước

Ở Việt Nam, đội ngũ GV giữ vai trò chủ đạo trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục.

Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề phát triển giáo dục và nâng cao chất lượng đội ngũ GV. Nghị quyết TW2 khóa VIII đã nêu: “Khâu then chốt để thực hiện chiến lược phát triển giáo dục là phải đặc biệt chăm lo đào tạo, bồi dưỡng và chuẩn hóa đội ngũ GV cũng như cán bộ QLGD” [19].

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ GV và CB QLGD là khâu then chốt” [9].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 133 trang tài liệu này.

Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020 đã đề ra các giải pháp phát triển giáo dục, trong đó có giải pháp phát triển đội ngũ nhà giáo, trong giải pháp này khẳng định: “…đổi mới căn bản và toàn diện nội dung và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành đội ngũ nhà giáo và cán bộ QLGD đủ sức thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông sau năm 2015” [7].

Bên cạnh đó, những công trình nghiên cứu về hoạt động bồi dưỡng GV kể đến như:

Phối hợp giữa trường trung học phổ thông với trung tâm bồi dưỡng giáo viên cấp tỉnh trong bồi dưỡng năng lực cho giáo viên ở tỉnh Hải Dương - 3

Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng: “Bất cứ hoàn cảnh nào du khó khăn đến đâu, ngành giáo dục cũng tìm mọi biện pháp mở trường, lớp (dài hạn, ngắn hạn, cấp tốc, tập trung, phân tán, nhóm nhỏ,...) để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ” [3].

Tác giả Hồ Phương Lan trong cuốn “Giải pháp tổng thể quản lý nhà trường hiệu quả trong thời kỳ hội nhập quốc tế” đã nêu lên những yêu cầu về xây dựng và phát triển đội ngũ, việc tăng cường, quản lý, xây dựng và phát triển đội ngũ [13].

Tác giả Bùi Thị Loan trong bài viết “Về công tác bồi dưỡng GV THPT hiện nay” đăng trên tạp chí giáo dục số 176, trong đó đã đề cập đến thực trạng của công tác bồi dưỡng GV hiện nay, đồng thời đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng [14].

1.1.2. Những nghiên cứu về phối hợp các lực lượng trong bồi dưỡng GV

Tại hội thảo “Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các trường, khoa sư phạm với các trường phổ thông và mầm non trong công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên chuẩn bị triển khai chương trình giáo dục sau 2015” [9] nhiều tác giả thống nhất một trong những biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý đào tạo trong trường sư phạm là xây dựng mối quan hệ thường xuyên, gắn bó chặt chẽ giữa trường sư phạm với trường phổ thông - nơi trực tiếp tiếp nhận và sử dụng sản phẩm đào tạo của trường. Trong đó, mỗi tác giả đề xuất nội dung, mức độ và hình thức phối hợp khác nhau.

Quan điểm tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa trường sư phạm với trường phổ thông được tác giả Tôn Quang Cường sử dụng trong việc đề xuất mô hình kết nối trong thực tập sư phạm, theo đó, hoạt động thực tập sư phạm ở trường sư phạm được đổi mới theo hướng tiến hành 4 giai đoạn (Kết nối, trải nghiệm, ứng dụng và phát triển nghề nghiệp), trong đó mỗi giai đoạn đều đặt ra yêu cầu có sự liên kết chặt chẽ với trường phổ thông trong việc tổ chức, giám sát và đánh giá hiệu quả thực hiện… [9, 15].

Hoạt động liên kết đã để lại những kinh nghiệm thiết thực cần tổng kết và phát huy, nâng cao vai trò các trung tâm GDTX trong đào tạo liên kết ở các bậc học, cấp học hình thức học khác nhau.

Trong Luật giáo dục 2005 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2009) tại khoản 1 điều 4 quy định: “Hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên”, điều 44 quy định “Giáo dục thường xuyên giúp mọi người vừa làm vừa học, học liên tục, học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện cuộc sống, tìm việc làm, tự tạo việc làm và thích nghi đời sống với đời sống xã hội” [16].

Các báo cáo tổng kết giáo dục thường xuyên hàng năm của Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã đề cập đến quản lý công tác phối hợp bồi dưỡng giáo viên theo hình thức liên kết, nhưng còn rất ít công trình nghiên cứu có hệ thống, có thực nghiệm tại một cơ sở giáo dục cụ thể. Mặc dù có nhiều bài viết và công trình nghiên cứu về công tác bồi dưỡng GV, phối hợp các lực lượng giáo dục trong bồi dưỡng giáo viên nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào về công tác phối hợp giữa các trường THPT với trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên cấp tỉnh trong bồi dưỡng năng lực GV trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Các bài viết và công trình nghiên cứu trên là những cơ sở lý luận quý báu, cung cấp những thông tin, kiến thức và nội dung giúp tác giả tiến hành nghiên cứu, phân tích thực trạng và đề xuất biện pháp phù hợp nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các trường THPT với trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên cấp tỉnh trong bồi dưỡng năng lực GV trên địa bàn tỉnh Hải Dương.

1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài

1.2.1. Năng lực giáo viên, hoạt động bồi dưỡng năng lực giáo viên

1.2.1.1. Khái niệm năng lực giáo viên

Khi nói đến năng lực là khả năng đạt được kết quả trong hoạt động nào đó. Muốn hoạt động đạt hiệu quả thì cá nhân thực hiện hoạt động ấy phải có những phẩm chất tâm lý nhất định phù hợp với yêu cầu của hoạt động đó.

Theo quan điểm của các nhà tâm lý học, năng lực là tổng hợp các đặc điểm, thuộc tính tâm lý của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao.

Như vậy, năng lực là sự kết hợp, hòa trộn giữa tiềm năng của cá nhân với sự đòi hỏi của nhiệm vụ và yếu tố văn hóa cùng những đặc điểm cụ hể của bối cảnh để hoàn thành một công việc nhất định.

Năng lực sư phạm của GV là cách thức tổ chức thực hiện hiệu quả hoạt động giảng dạy và giáo dục. Năng lực sư phạm của GV là khả năng vận dụng tổng hợp, kiến thức, kĩ năng sư phạm, thái độ của GV sư phạm nhằm tổ chức thực hiện có hiệu quả hoạt động dạy học và giáo dục nghề nghiệp cho học sinh sư phạm theo yêu cầu, chức năng, nhiệm vụ được giao.

Năng lực sư phạm của GV phải thể hiện qua việc tổ chức thực hiện hoạt động nghề nghiệp của họ nhưng phải theo yêu cầu, chức năng, nhiệm vụ được giao. Nghĩa

là người GV phải hiểu rõ chức năng, nhiệm vụ của mình trong hoạt động nghề nghiệp, hiểu rõ những yêu cầu của lao động nghề nghiệp đặt ra (yêu cầu về phẩm chất, năng lực), từ đó có thể tổ chức thực hiện hoạt động giảng dạy và giáo dục nghề nghiệp cho sinh viên một cách phù hợp, đúng hướng.

1.2.1.2. Hoạt động bồi dưỡng năng lực giáo viên

Bồi dưỡng GV là quá trình bổ sung nhằm mục đích nâng cao trình độ chuyên môn và hoàn thiện năng lực sư phạm của GV.

Theo từ điển giáo dục học: “Bồi dưỡng giáo viên được coi là hoạt động đào tạo lại, giúp GV cập nhật được những kiến thức khoa học chuyên ngành, những phương pháp mới, tiếp thu những kinh nghiệm giáo dục tiên tiến, để từ đó nâng cao thêm trình độ chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm”.

Tóm lại, bồi dưỡng đội ngũ GV là hoàn thiện và nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ hoặc ngoại ngữ, tin học nhằm nâng cao nhận thức, trang bị, bổ sung, cập nhật kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp.

Như vậy, bồi dưỡng là việc hướng đội ngũ GV vào việc duy trì và hoàn thiện kết quả thực hiện công việc hiện có, đang diễn ra. Đào tạo đội ngũ GV, được hiểu là hoạt động học tập nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ GV, hướng vào việc hình thành các kỹ năng cho các công việc trong tương lai, trách nhiệm cao hơn, nặng nề và phức tạp hơn.

1.2.2. Khái niệm phối hợp

Theo Từ điển Tiếng Việt (1995), phối hợp được xác định như sau: “Phối hợp là cùng hành động hoặc hoạt động hỗ trợ lẫn nhau”. Phối hợp là hoạt động cùng nhau của hai hay nhiều cá nhân, tổ chức để hỗ trợ cho nhau thực hiện một công việc chung.

Như vậy, phối hợp là quá trình liên kết hoạt động của những con người, bộ phận, phân hệ và hệ thống riêng rẽ nhằm thực hiện có kết quả và hiệu quả các mục tiêu chung của tổ chức.

Từ khái niệm trên cho thấy, hoạt động phối hợp nhằm giúp cho mỗi hoạt động của từng cá nhân hoặc từng bộ phận được thống nhất. Bên cạnh đó, hiệu quả của hoạt động phối hợp còn phụ thuộc vào tính chất công việc và mối quan hệ trong từng bộ phận của tổ chức.

Ngoài ra, các nghiên cứu trước đó còn cho thấy, để đạt được hiệu quả đối với hoạt động phối hợp, các tổ chức cần thực hiện các nhiệm vụ sau:

- Xây dựng các kênh thông tin phản hồi giữa các bộ phận, phân hệ.

- Duy trì được các mối liên hệ thường xuyên giữa các bộ phận.

Ngoài việc xử dụng các biện pháp kể trên, nhà QL cũng cần nắm vững và sử dụng kết hợp nhuần nhuyễn một số công cụ như kế hoạch hóa, hệ thống tiêu chuẩn, các tiêu chí đánh giá, quản lý văn hóa tổ chức,…

1.2.3. Phối hợp giữa Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên cấp tỉnh với trường Trung học phổ thông trong bồi dưỡng năng lực giáo viên

Từ các khái niệm nêu trên có thể hiểu công tác phối hợp giữa trung tâm GDNN-GDTX với trường THPT trong bồi dưỡng năng lực GV là hoạt động liên kết, hỗ trợ lẫn nhau giữa trung tâm GDNN-GDTX với trường THPT trong việc hoàn thiện và nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ hoặc ngoại ngữ, tin học nhằm nâng cao nhận thức, trang bị, bổ sung, cập nhật kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp của đội ngũ giáo viên THPT.

Khi nói Hiệu trưởng THPT phối hợp với Trung tâm giáo dục nghề nghiệp-giáo dục thường xuyên trong bồi dưỡng năng lực giáo viên là nói đến hoạt động của hiệu trưởng, của nhà trường trong việc tổ chức phối hợp với Trung tâm giáo dục nghề nghiệp-giáo dục thường xuyên thực hiện hoạt động bồi dưỡng năng lực GV, đồng thời cũng nhấn mạnh đến sự chủ động, tích cực của nhà trường trong hoạt động này. Để phối hợp có hiệu quả, hiệu trưởng phải xác định những lĩnh vực hoạt động chung; trong mỗi lĩnh vực ấy nội dung phối hợp là gì? mỗi tổ chức phải làm gì? có trách nhiệm nào?

1.3. Hoạt động bồi dưỡng GV trung học phổ thông

1.3.1. Yêu cầu năng lực đối với giáo viên THPT để thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 2018

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ và mục tiêu, yêu cầu, nội dung của Chương trình giáo dục phổ thông mới, theo các công đoạn hành nghề, GV có 7 nhóm năng lực cần thiết.

Thứ nhất, GV phải có năng lực tìm hiểu học sinh và môi trường giáo dục để dạy học và giáo dục phù hợp. Theo đó, GV phải biết sử dụng các phương pháp thu thập, xử lý thông tin trong việc tìm hiểu cá nhân học sinh như: về thể chất, tâm lý, đạo đức, quan hệ xã hội, khả năng học tập...

Ngoài ra, GV phải tìm hiểu đặc điểm môi trường nhà trường, cộng đồng và sử dụng kết quả tìm hiểu vào dạy học và giáo dục học sinh.

Thứ hai, GV phải có năng lực giáo dục nhằm phát triển toàn diện nhân cách học sinh. Cụ thể là: Biết thực hiện giáo dục qua giảng dạy môn học; biết tổ chức và phát triển tập thể lớp trở thành một tập thể lành mạnh, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.

Có phương pháp và kỹ năng tổ chức các hoạt động giáo dục trải nghiệm; giáo dục học sinh cá biệt; có phương pháp và kỹ năng đánh giá kết quả rèn luyện đạo đức của học sinh; có kỹ năng tư vấn và tham vấn cho học sinh và cha mẹ học sinh về các vấn đề liên quan đến học tập và rèn luyện đạo đức của các em.

Thứ ba, GV phải có năng lực dạy học môn học trong chương trình giáo dục. Cụ thể là: Nắm vững kiến thức, kỹ năng về môn học được phân công dạy; biết lập các loại kế hoạch dạy học;

Biết vận dụng các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học hợp lý theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo ở học sinh thực hiện phân hóa, cá nhân hóa và rèn luyện kỹ năng học tập cho các em; sử dụng hiệu quả thiết bị dạy học, đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông; có kiến thức, kỹ năng về kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh...

Thứ tư, GV phải có năng lực giao tiếp để thực hiện tốt nhiệm vụ dạy học và giáo dục. Cụ thể là: Biết giao tiếp với học sinh, phụ huynh, với đồng nghiệp và với cộng đồng: cởi mở, thân thiện, gây được niềm tin với đối tượng giao tiếp, biết lắng nghe, kiềm chế bản thân, biết thuyết phục người khác…

Thứ năm, GV phải có năng lực đánh giá trong giáo dục. Cụ thể là: Có kỹ năng thiết kế các công cụ đánh giá kết quả giáo dục thể hiện ở mức độ đạt được các năng lực cần hình thành và phát triển ở học sinh.

Biết cách thu thập thông tin từ nhiều nguồn bảo đảm khách quan, chính xác về học sinh; biết sử dụng hợp lý kết quả đánh giá định tính và định lượng vào quá trình dạy học, giáo dục học sinh; có kỹ năng sử dụng các phần mềm hỗ trợ đánh giá.

Thứ sáu, GV phải có năng lực hoạt động xã hội. Biết cách tuyên truyền, vận động những người xung quanh tham gia vào các hoạt động phát triển cộng đồng, xây dựng môi trường văn hóa - xã hội bằng nhiều hình thức, phương pháp khác nhau; biết chủ trì tổ chức hoạt động xã hội.

Thứ bảy, GV phải có năng lực phát triển nghề nghiệp. Biết xây dựng kế hoạch tự học, tự bồi dưỡng phù hợp cho từng giai đoạn và có phương pháp, kỹ năng tự học; biết phát hiện vấn đề nẩy sinh trong thực tiễn giáo dục và thiết kế đề tài nghiên cứu giải pháp giải quyết.

Bảy nhóm năng lực trên cấu thành phẩm chất nghề nghiệp của người GV trong nhà trường phổ thông hiện đại.

Ngoài ra, để triển khai Chương trình giáo dục phổ thông mới, đối với giáo viên, việc thực hiện chương trình sẽ nảy sinh những vấn đề cần giải quyết như thay đổi cơ cấu đội ngũ giáo viên ở các trường Trung học Cơ sở, giáo viên ở cấp học này phải chuyển từ dạy đơn môn sang dạy môn học có tính tích hợp rộng. GV cần được trang bị kỹ năng vận dụng các phương pháp dạy học đáp ứng đổi mới chương trình theo định hướng tích hợp, phát triển năng lực; kỹ năng phát triển chương trình nhà trường, chương trình môn học; kỹ năng kiểm tra - đánh giá theo định hướng phát triển năng lực; kỹ năng thiết kế các dự án, chủ đề dạy học tích hợp, nghiên cứu khoa học cho học sinh; kỹ năng soạn các tiêu chí, tham gia đánh giá phẩm chất, năng lực học sinh; kỹ năng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo; kỹ năng nhận ra và giải quyết các tình huống giáo dục; xây dựng các chủ đề giáo dục phù hợp địa phương; kỹ năng tham vấn học đường, tư vấn hướng nghiệp…

1.3.2. Mục tiêu hoạt động bồi dưỡng GV THPT ở trung tâm GDNN - GDTX cấp tỉnh

Bồi dưỡng đội ngũ GV THPT là để nâng cao phẩm chất đạo đức, hoàn thiện trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ hoặc ngoại ngữ, tin học nhằm nâng cao nhận thức, trang bị, bổ sung, cập nhật kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp. Bất cứ loại hình bồi dưỡng nào cũng không nằm ngoài mục tiêu là nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho GV, nhằm thúc đẩy và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại háo đất nước.

Xem tất cả 133 trang.

Ngày đăng: 17/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí