Về các quan hệ song phương, đến nay, nước ta đã có quan hệ thương mại với 160 quốc nước và vùng lãnh thổ, trong đó đã ký kết hiệp định thương mại với 90 quốc gia và vùng lãnh thổ, 46 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 40 hiệp định chống đánh thuế hai lần, có thoả thuận đối xử Tối huệ quốc 81 quốc gia. Một số hiệp định quan trọng như Hiệp định thương mại Việt Nam - Trung Quốc (1991), Hiệp định hợp tác kinh tế Việt Nam - Trung Quốc (1992), Hiệp định khung với Liên minh châu âu (EU) (1992), Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ (2000), Hiệp định hợp tác đầu tư với Nhật Bản (2003)… Việt Nam cũng đã thiết lập quan hệ đầu tư với 70 nước và vùng lãnh thổ.
Về các quan hệ đa phương toàn cầu và khu vực, Việt Nam đã khai thông và nối lại quan hệ với Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB) (1993); gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995; tham gia Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1996, là thành viên sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) năm 1996, gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương (APEC) năm 1998; tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) năm 2001.
Việt Nam đã kết thúc thành công 14 phiên đàm phán đa phương và song phương với 28 nước thành viên của WTO có yêu cầu đàm phán. Ngày 7/11/2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại Thế giới, mở ra những cơ hội to lớn đối với phát triển kinh tế nước ta.
Hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam phải thực hiện các cam kết quốc tế mở cửa thị trường đối với hàng hóa và dịch vụ, trong đó có dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa. Cam kết quốc tế về mở cửa thị trường trong lĩnh vực phân phối bán lẻ hàng hóa của Việt Nam bao gồm các cam kết trong khuôn khổ các hiệp định thương mại song phương, trong khuôn khổ Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA) và ASEAN+ (ASEAN với các đối tác) và cam kết trong khuôn khổ WTO.
Dịch vụ phân phối hiện nay đã được mở cửa cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ, Nhật Bản (theo các cam kết trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và Hiệp định bảo hộ và xúc tiến đầu tư Việt Nam - Nhật Bản). Gia nhập WTO, trong thời gian tới, dịch vụ phân phối sẽ được tiếp tục mở cửa cho các nước thành viên khác. Đến 01/01/2009, Việt Nam sẽ mở cửa hoàn toàn cho các doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ 100% vốn đầu tư nước ngoài đối với hầu hết các mặt hàng. Ngoài sự mở rộng đầu tư của các doanh nghiệp FDI trong nước, theo bộ Kế hoạch và đầu tư sẽ có một số tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới đã đến khảo sát thị trường và bày tỏ ý định đầu tư vào Việt Nam. Trong số đó có Tesco của Anh, tập đoàn bán lẻ đứng thứ 6; Wal-Mart - nhà bán lẻ lớn nhất thế giới, và Carrefoul, nhà bán lẻ lớn thứ hai thế giới cũng đã đưa Việt Nam vào kế hoạch mở rộng các thị trường trọng điểm trong thời gian tới.
Hệ thống phân phối hàng hóa tại Việt Nam hiện nay chủ đạo bởi hệ thống phân phối truyền thống với kênh phân phối chính là chợ và các tiệm bán lẻ rải rác khắp các địa phương. Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện các cam kết quốc tế, đã xuất hiện các hệ thống kinh doanh bán lẻ hiện đại với các siêu thị như Co.opMart, MaxiMark... và các trung tâm bán buôn, bán lẻ lớn như Metro, BigC đã dần dần tạo nên những thay đổi trong thói quen mua sắm của dân cư, đặc biệt là tại các đô thị lớn. Tại các đô thị lớn - nơi có sức mua lớn nhất, nhịp sống dần dần được thay đổi trong các gia đình trẻ bởi thói quen cuối tuần đi siêu thị mua đồ dùng cho cả gia đình trong một tuần. Thêm nữa, sự chênh lệch về phương thức kinh doanh, sự đa dạng hàng hóa, giá cả, nhãn hiệu, an toàn thực phẩm... đã nghiêng cán cân lợi thế về phía hệ thống phân phối hiện đại.
Như vậy, với việc thực hiện các cam kết quốc tế, hệ thống phân phối trong nước ngày càng đa dạng với sự xuất hiện ngày càng nhiều của các nhà phân phối nước ngoài. Lĩnh vực phân phối bán lẻ của nước ta sẽ có cơ hội trở thành một ngành công nghiệp bán lẻ tiên tiến theo kịp với xu hướng chung của khu vực và thế giới.
2. Thách thức
Có thể bạn quan tâm!
-
Tổng Mức Bán Lẻ Hàng Hóa Và Doanh Thu Dịch Vụ Tiêu Dùng Theo Các Khu Vực Kinh Tế Giai Đoạn 2002- 2005.
-
Mang Đến Những Phương Thức Quản Lý Và Trình Độ Tổ Chức Kinh Doanh Hiện Đại
-
Biến Đổi Trong Tình Trạng Thu Nhập Của Các Nhóm Đối Tượng Trong Xã Hội
-
Hỗ Trợ Các Doanh Nghiệp Sản Xuất Tiếp Cận Với Nguồn Vốn
-
Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực phân phối bán lẻ của Việt Nam - 11
-
Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực phân phối bán lẻ của Việt Nam - 12
Xem toàn bộ 98 trang tài liệu này.
2.1. Cơ sở hạ tầng yếu kém
Sự khan hiếm mặt bằng kinh doanh là một trở ngại đối với việc thu hút FDI vào lĩnh vực phân phối bán lẻ. Ở nước ta hiện nay, hầu hết các mặt bằng hiện hữu không đạt tiêu chuẩn quốc tế và để đảm bảo chỗ đứng cho mình, nhiều nhà kinh doanh bán lẻ quốc tế đã phải chọn giải pháp cải tạo lại các cửa hàng mặt tiền trong khi chờ đợi những mặt bằng có chất lượng tốt hơn.
Do thiếu mặt bằng nên giá thuê trung bình tại TP.HCM và Hà Nội đã tăng nhanh chóng kể từ năm 2002 và đạt mức 40 USD/m2/tháng vào cuối quí III năm 2007. Giá thuê của những mặt bằng tại những vị trí đẹp, hoặc tại khu trung tâm kinh doanh thương mại và tầng trệt lên đến 200 USD/m2/tháng12.
Hiện nay công suất thuê mặt bằng tại các thành phố lớn nước ta đều đạt trên 95% và nhu cầu thuê mặt bằng đang tăng mạnh. Có nhiều trung tâm thương mại đến nay vẫn đang trong quá trình xây dựng nhưng các nhà kinh doanh cũng đã đăng ký thuê kín chỗ.
2.2. Phong cách tiêu dùng của người dân vẫn mang nặng tính truyền thống
Phần lớn dân cư nước ta vẫn chưa thích ứng được với các mô hình mua sắm hiện đại. Vì vậy, ở trong nước, dù những tập đoàn bán lẻ lớn như Big C,
12 CBRE, Viet_CBRE fearless forecast 2008
Metro đang kinh doanh rất thành công, thì hệ thống phân phối truyền thống gồm hơn 9.000 chợ vẫn đang hoạt động hiệu quả và thu hút một lượng lớn dân cư thuộc mọi tầng lớp, đặc biệt là những người có mức thu nhập trung bình, thấp và những người hưu trí. Những người tiêu dùng trong nước hàng ngày vẫn tiếp cận với những nguồn hàng hoá tại chợ gần với nơi họ sinh sống hoặc tại các cửa hàng ven đường. Điều đó cho thấy, mặc dù nhu cầu ngày một gia tăng, nhưng điều đó chưa đủ để có thể thay đổi tập quán, thói quen tiêu dùng.
Hiện tại, thị phần bán lẻ qua các kênh phân phối hàng hóa ở Việt Nam về cơ bản được phân chia như sau: qua các hệ thống phân phối hiện đại như siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện lợi... khoảng 10%; qua hệ thống chợ truyền thống khoảng 40%; qua hệ thống các cửa hàng bán lẻ độc lập khoảng 44%; còn lại khoảng 6% là do các nhà sản xuất trực tiếp phân phối sản phẩm của mình.
Biểu đồ 4: Các loại hình phân phối bán lẻ của Việt Nam trong giai đoạn 2002 - 2005
Người Việt Nam vốn quá quen với văn hóa chợ và cửa hàng tạp hóa nên để người tiêu dùng có thể thay đổi hành vi mua sắm ở các cửa hàng bán
lẻ hiện đại, họ cần thời gian thích nghi. Yếu tố này thường dễ làm các nhà đầu tư nản lòng.
2.3. Mâu thuẫn giữa các nhà sản xuất trong nước và các nhà bán lẻ nước ngoài
Khi các doanh nghiệp bán lẻ vào Việt Nam, đặc biệt là những doanh nghiệp phân phối hàng tiêu dùng, một điều họ khá quan tâm là nguồn cung hàng hóa trong nước. Đa phần các nhà sản xuất đều mong muốn sản phẩm phải phù hợp với nhu cầu và xu hướng tiêu dùng của thị trường, với hàng may mặc thì nhà sản xuất phải có nhiều bộ siêu tập trong năm, các yêu cầu về chất lượng, kỹ thuật phải đảm bảo, đồng thời phải giao hàng đúng thời hạn, giá cả được trả theo đúng thỏa thuận hai bên đã cam kết. Song sản xuất của chúng ta quy mô nhỏ, đôi khi không thể hoàn thành đơn hàng đúng thời hạn. Chất lượng sản phẩm không đúng theo yêu cầu và dẫn đến tình trạng có những nhà sản xuất đưa tiền cho nhân viên siêu thị để được có mặt trong hệ thống của họ. Đặc biệt về hàng hóa thời trang như may mặc, giày dép, mặc dù chúng ta có thể xuất khẩu nhưng hầu hết vẫn phải nhường chỗ cho thương hiệu nước ngoài trong những trung tâm mua sắm sang trọng như Parkson, Zen plaza…
Hơn nữa, đối với các nhà phân phối lớn như Metro, Walmart…thì họ cần một lượng hàng hóa tập trung mà chỉ có những doanh nghiệp sản xuất lớn mới có thể có khả năng đáp ứng những điều kiện của họ. Còn những nhà sản xuất nhỏ yếu về kinh nghiệm, tài chính, nguồn lực thì khó có thể cạnh tranh để có được một vị trí tốt trên những quầy kệ, siêu thị của hệ thống phân phối hàng hóa hiện đại này.
2.4. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ trong nước hạn chế
Gia nhập WTO và mở cửa thị trường là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp trong nước đặc biệt là những lĩnh vực đã được nhà nước bảo hộ mạnh mẽ đến thời điểm hiện nay. Vì được bảo hộ nên năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp này rất yếu kém và nếu không kịp thời đổi mới phương thức hoạt động kinh doanh thì rất dễ rơi vào tình trạng đình trệ sản xuất và kinh doanh và dẫn tới phá sản là điều khó tránh khỏi. Phân phối bán lẻ là lĩnh vực tác động không chỉ đến tiêu dùng mà còn đến cả sản xuất. Nếu các doanh nghiệp trong nước không đứng vững được trên thị trường nước nhà thì nguy cơ bị các tập đoàn bán lẻ nước ngoài lũng đoạn thị trường là điều khó tránh khỏi. Vì thế, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam là một bài toán khó của tiến trình mở cửa thị trường. Nếu doanh nghiệp Việt Nam đủ lớn mạnh để phân chia thị phần với các doanh nghiệp nước ngoài thì lợi ích cho việc mở cửa thị trường thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào phân phối bán lẻ là không nhỏ. Do đó để có thể tăng cường thu hút FDI vào lĩnh vực này thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp là điều khá cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
II. GIẢI PHÁP NHẰM TẬN DỤNG TỐT NHẤT DÒNG VỐN FDI VÀO LĨNH VỰC PHÂN PHỐI BÁN LẺ CỦA VIỆT NAM
1. Giải pháp về phía nhà nước
1.1. Thực hiện mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa theo các cam kết quốc tế
Mở cửa thị trường hàng hoá và dịch vụ phân phối với lộ trình đã cam kết để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài được đầu tư vào Việt Nam đồng thời tạo dần sức ép cạnh tranh để buộc các doanh nghiệp trong
nước phải đẩy mạnh quá trình đổi mới hoạt động thương mại, đẩy mạnh quá trình liên kết, đẩy mạnh quá trình tích tụ và tập trung các nguồn lực để đẩy mạnh quá trình tăng trưởng. Mặt khác, thông qua các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi, giúp doanh nghiệp trong nước tranh thủ thời gian và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của doanh nghiệp và của xã hội để vươn lên, đủ khả năng hợp tác và cạnh tranh với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã và sẽ tham gia vào lĩnh vực phân phối.
Bên cạnh đó mở cửa phải đi đôi với việc công bố rộng rãi những tiến trình xúc tiến việc mở cửa thị trường trên toàn thế giới để thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài. Đối với các doanh nghiệp đã đến tìm hiểu thị trường Việt Nam, nhà nước cần tạo điều kiện để các doanh nghiệp này được tiếp xúc với nguồn thông tin cần thiết và hỗ trợ về mặt pháp lý để đẩy nhanh tiến độ xúc tiến đầu tư. Để làm được việc đó, Chính phủ có thể thành lập Website công bố toàn bộ các chính sách về thương mại, về đầu tư, về sở hữu trí tuệ…. Điều đó cũng đáp ứng nguyên tắc công khai, minh bạch theo yêu cầu của WTO.
1.2. Nhà nước cần có các biện pháp xây dựng và quy hoạch tổng thể về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực phân phối bán lẻ
Để thu hút được vốn FDI vào lĩnh vực phân phối bán lẻ, bên cạnh việc hoàn thiện và tăng tính hấp dẫn của các văn bản thì việc sớm công bố quy hoạch trở nên cấp bách. Quy hoạch này cần cố gắng đảm bảo độ chuẩn xác cao với tình hình mất cân đối trong việc thu hút vốn đầu tư giữa các vùng, mất cân đối giữa các hình thức đầu tư.
Trong thực tế, thu hút vốn FDI vào lĩnh vực phân phối bán lẻ một cách cân bằng giữa các vùng là mong muốn của cả nền kinh tế. Tuy nhiên,
để thực hiện được thì lại rất khó. Các dự án lớn của các tập đoàn bán lẻ đều chủ yếu tập trung tại các thành phố lớn do họ đều đặt các mục tiêu lợi nhuận, doanh thu lên hàng đầu. Do đó nhà nước cần có những chính sách ưu đãi tưng xứng để thu hút nguồn vốn FDI về vùng nông thôn nhằm phát triển cân bằng giữa các vùng và góp phần đô thị hóa nông thôn.
1.3. Nhà nước cần có các biện pháp hoàn thiện môi trường đầu tư
Để tạo sự hấp dẫn cho dòng vốn đầu tư, việc hoàn thiện môi trường đầu tư có ý nghĩa rất quan trọng. Giải pháp này cần tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau:
Một là, thủ tục xét duyệt và cấp giấy phép cho các dự án FDI
Thủ tục đầu tư trực tiếp nước ngoài có ý nghĩa quan trọng đối với việc thu hút đầu tư và quyết định tiến độ thực hiện dự án. Thủ tục rườm rà, sách nhiễu sẽ làm giảm độ hấp dẫn đối với dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, gây trở ngại đến việc thu hút đầu tư. Thêm vào đó, Việt Nam sắp tới thời điểm thực sự mở cửa lĩnh vực phân phối bán lẻ thì thủ tục xét duyệt và cấp giấy phép đầu tư cho các dự án FDI lại càng cần phải hoàn thiện. Thêm vào đó, Chính phủ cũng cần sớm nghiên cứu để xây dựng những quy định, nguyên tắc về đánh giá nhu cầu thực tế khi xem xét các đề nghị mở từ điểm bán lẻ thứ hai trở đi của các nhà đầu tư nước ngoài theo đúng các cam kết trong WTO bảo đảm được lợi ích chung của xã hội.
Hai là, nâng cao chất lượng mặt bằng đồng thời với việc củng cố hạ tầng vật chất kỹ thuật
Đối với lĩnh vực phân phối bán lẻ thì mặt bằng là một trong những yếu tố quyết định đối với doanh số bán hàng. Vì vậy chính phủ cần tập trung đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong các khâu cấp đất, giải