Nội Dung Phát Triển Thị Trường Tiền Tệ Sau Khi Gia Nhập Wto


Bas cung cấp cho người vay tín dụng lãi suất thấp và cung cấp cho ngân hàng một loại chứng khoán có khả năng mua bán trao đổi trên thị trường.

2 Công cụ mang lãi suất.

Các chứng khoán mang lãi suất được phát hành với mệnh giá cố định, được đáo hạn vào những ngày nhất định và có lãi suất – là lãi suất hàng năm mà người phát hành hứa thanh toán cho người nắm giữ tính trên mệnh giá của chứng khoán khi chưa đến hạn thanh toán. Trên thực tế có rất nhiều loại công cụ mang lãi suất.

Chứng chỉ tiền gửi ngân hàng (Certificate of deposit – CDs).

Chứng chỉ tiền gửi là công cụ vay nợ do NHTM bán cho người gửi tiền với lãi suất nhất đinh, thời hạn nhất định và được lưu thông khi chưa đến hạn thanh toán. Người sở hữu CDs có thể được hoàn trả hết toàn bộ số tiền gửi cộng với lãi suất hoặc có thể bán CDs trên thị trường thứ cấp. Các CDs là công cụ mạng lãi suất, lãi suất của nó được tính toán trên cơ sở 360 ngày và được trả theo mệnh giá và thời hạn. CDs là công cụ vay nợ của ngân hàng do ngân hàng bán cho người gửi tiền với lãi suất được qui định cho từng thời hạn nhất định, lãi suất được trả hàng năm (360 ngày/năm ). Khi đến thời hạn thanh toán, CDs được thanh toán theo mệnh giá ( giá mua ban đầu ).

Hợp đồng mua lại (Repurchase agreement – REPO hay RP).

Hợp đồng mua lại là những món vay ngắn hạn (kỳ hạn thanh toán thường ít hơn 2 tuần lễ) trong đó tín phiếu kho bạc, trái phiếu Chính phủ…được dùng làm vật bảo đảm một tài sản có mà người cho vay nhận được nếu người đi vay không thanh toán được nợ. Lãi suất của RP thấp hơn lãi suất vay vốn của ngân hàng trung ương. Lãi suất qua đêm (1 ngày) là một trong những loại lãi suất thấp nhất trên thị trường tiền tệ.

Vốn Ngân hàng Trung ương.

Vốn ngân hàng trung ương không phải là vốn phát hành tiền giấy, cũng không phải là khoản chi của ngân sách nhà nước cấp cho ngân hàng trung ương hoạt động, mà là một phần tiền gửi dự trữ bắt buộc của tất cả các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng trong cả nước gửi tại ngân hàng trung ương.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 249 trang tài liệu này.


Trái phiếu đô thị chính quyền địa phương (Municipal notes).

Phát triển thị trường tiền tệ ở Việt Nam sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới - 7

Loại trái phiếu này do chính quyền địa phương phát hành để vay vốn của công chúng xây dựng những công trình phúc lợi ( trường học, bệnh viện, công trình thể thao,v.v...), phần lớn là trái phiếu vô danh, thời hạn 3 năm.

1.1.2.7. Cơ chế hoạt động của thị trường tiền tệ

Thị trường tiền tệ là môi trường diễn ra các hoạt động tài chính – tiền tệ đa dạng và phức tạp trong việc huy động và phân phối lại các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và giữa các chủ thể kinh tế, trên cơ sở quan hệ cung cầu các nguồn vốn. Qua đó, thúc đẩy sự giao lưu các nguồn vốn, mở rộng các quan hệ kinh tế trong nước và quốc tế, nhằm sử dụng tiền vốn của xã hội với hiệu quả cao nhất.

C.Mác đã chỉ rõ: “Trên thị trường tiền tệ chỉ có những người cho vay và những người đi vay chạm trán với nhau. Hàng hoá đều mang một hình thái như nhau là hình thái tiền” [ 5, tr.19 ]. Do đó thị trường tiền tệ là nơi mua và bán thứ hàng hoá đặc biệt là tiền tệ.

(*)- Phương thức giao dịch và lãi suất trên thị trường tiền tệ

1 Phương thức giao dịch

Có nhiều loại hình và phương thức giao dịch trên thị trường tiền tệ, nhưng chủ yếu là hình thức phi tập trung, hoạt động 24 giờ một ngày thông qua mạng lưới điện thoại, telex, fax, máy tính nối mạng giữa người mua và người bán, giữa các phòng giao dịch của thị trường tiền tệ, giữa thị trường tiền tệ với khách hàng.

2 Lãi suất trên thị trường tiền tệ

Theo học thuyết của K.Max, khi tiền tệ trở thành tư bản cho vay (trong điều kiện thị trường hoàn hảo), thì giá vốn cũng chịu điều tiết của quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân. Tuy nhiên, lý thuyết kinh tế - tiền tệ hiện đại cho rằng lãi suất thị trường được hình thành trên cơ sở cung cầu tiền tệ trên thị trường và lãi suất này cũng bị ảnh hưởng bởi sự can thiệp của Ngân hàng Trung ương. Do thị trường tiền tệ thiên về vốn đi vay nên nó chịu sự ràng buộc chặt chẽ với lãi suất ngân hàng và được điều tiết vĩ mô bởi ngân hàng trung ương. Nói chung lãi suất tăng hay giảm là do tương quan của cung và cầu tiền tệ, do chính sách của Ngân hàng Trung ương và của Chính phủ, khi mà Ngân hàng Trung ương còn chưa có sự độc lập tương đối với


Chính phủ. Vì vậy, lãi suất trên thị trường tiền tệ được xác định hoàn toàn tự do theo qui luật cung cầu và lãi suất chính là giá cả của “hàng hoá” được mua bán trên thị trường tiền tệ.

NHTW mỗi nước lựa chọn và sử dụng cơ chế điều hành lãi suất phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ của mình và điều kiện thị trường tiền tệ, không có mô hình chung áp dụng cho các NHTW các nước. Thông thường, ở các nước phát triển, NHTW sử dụng lãi suất chính thức là lãi suất cho vay qua đêm hoặc lãi suất định hướng liên ngân hàng được xác lập chủ yếu qua nghiệp vụ thị trường mở. Còn các nước đang phát triển sử dụng lãi suất cho vay ngắn hạn (tái cấp vốn) kết hợp với lãi suất chiết khấu. Sự thay đổi lãi suất chính thức phụ thuộc vào sự lựa chọn mục tiêu của chính sách tiền tệ và diễn biến kinh tế vĩ mô, tình trạng vốn khả dụng của NHTM. Lãi suất chính thức cần phải phản ảnh vai trò của NHTW là người cho vay cuối cùng trên thị trường liên ngân hàng. Việc công bố lãi suất chính thức của NHTW tác động đến nền kinh tế theo nhiều kênh khác nhau và không gây xáo trộn về lãi suất và giá tài sản (cổ phiếu và trái phiếu) trên thị trường vốn và tỷ gía hối đoái trên thị trường ngoại hối, tạo điều kiện cho các trung gian tài chính kinh doanh thuận lợi, có hiệu quả.

Theo lý thuyết cơ bản từ A.Smith đến K.Max đã chỉ ra: Lợi tức là một hình thái giá cả, nó là giá cả của tiền vay và do đó, lãi suất phải gắn và luôn nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân. Ngân hàng Thương mại là một doanh nghiệp, cũng phải cạnh tranh với các doanh nghiệp khác cho nên NHTM cũng phải tuân thủ quy luật về tỷ suất lợi nhuận bình quân. Về lượng có thể khái quát là:

0 < lãi suất < tỷ suất lợi nhuận bình quân

Nhưng từ góc độ vĩ mô, lãi suất còn là công cụ của chính sách tiền tệ mà điều đó lại thuộc về NHTW. Ngân hàng Trung ương với tư cách là ngân hàng của Chính phủ, là nơi cho vay cuối cùng, phải xác định lãi suất tái chiết khấu để từ đó điều hành lãi suất của các NHTM. Việc tăng giảm lãi suất tái chiết khấu của NHTW sẽ trực tiếp tác động đến khối lượng tín dụng và do đó tác động đến khối lượng tiền tệ lưu thông. Bởi vậy, việc xác định lãi suất tái chiết khấu của NHTW phải được hình thành trên cơ sở:

-Xem xét tỷ suất lợi nhuận bình quân của toàn bộ nền kinh tế.

-Tính toán để điều chỉnh khối lượng tiền tệ lưu thông.


-Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô.

(*)-Hoạt động điều tiết của NHTW trên thị trường tiền tệ

Ở mỗi quốc gia, NHTW là cơ quan đầu não của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Do NHTW được thành lập để phục vụ cho công cuộc củng cố và phát triển hệ thống kinh tế xã hội của đất nước, các chính sách của nó đều hướng về việc điều tiết kinh tế để đạt các mục tiêu đã định. Ngân hàng Trung ương có vai trò đặc biệt quan trọng. Trước hết, NHTW là người tổ chức thực hiện chủ yếu chính sách tiền tệ của Nhà nước, là cơ quan nhà nước duy nhất và độc quyền cung ứng lượng tiền cần thiết cho nhu cầu tăng trưởng kinh tế của đất nước.

Có thể nói, nhiệm vụ quan trọng nhất của Ngân hàng trung ương là đảm bảo cho đồng tiền được ổn định bằng cách duy trì một tỷ lệ lạm phát phù hợp với tốc độ tăng trưởng liên tục và bền vững của nền kinh tế cũng như giữ vững được tỷ giá hợp lý của đồng nội tệ với các ngoại tệ.

Từ một góc độ khác, NHTW là thành viên của thị trường tiền tệ, nhưng là thành viên duy nhất không kinh doanh thu lợi nhuận, chỉ là thành viên tổ chức, quản lý thị trường, kiểm soát, điều hoà nhằm duy trì sự ổn định và phát triển của thị trường, đồng thời là người thanh toán cuối cùng, người cho vay cuối cùng của hệ thống tín dụng và ngân hàng cũng như của toàn bộ nền kinh tế. Cũng bởi vì vai trò đặc biệt như vậy, hoạt động điều tiết của NHTW trên thị trường tiền tệ được thể hiện ra đầy sức mạnh.

Để tăng động lực phát triển kinh tế, NHTW thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ, tín dụng bằng cách giảm lãi suất tín dụng, hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng hoặc mua vào các chứng khoán nợ của nhà nước. Tuỳ theo tình hình cụ thể trong từng thời gian nhất định, ngân hàng trung ương sẽ sử dụng biện pháp này hay biện pháp khác.

Khi cần thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng, ngân hàng trung ương sẽ làm ngược lại, hoặc tăng lãi suất chiết khấu, hoặc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hoặc bán ra nhiều chứng khoán nợ chính phủ.

Tóm lại, với chức năng, nhiệm vụ của mình, Ngân hàng Trung ương là tổ chức đưa ra thiết chế, điều luật cho thị trường tiền tệ nhằm bảo đảm một thị trường tiền tệ hoạt động năng động, có hiệu quả, trôi chảy và có tổ chức. Như vậy, Ngân hàng Trung ương tham gia thị trường tiền tệ không phải để kinh doanh tiền tệ kiếm lời,


mà để quản lý, điều hành thị trường nhằm thực hiện những mục tiêu của chính sách tiền tệ. Đây cũng là đặc điểm của sự vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

1.2. Nội dung phát triển thị trường tiền tệ sau khi gia nhập WTO

1.2.1. Nội dung phát triển thị trường tiền tệ sau khi gia nhập WTO

1.2.1.1. Quan niệm về phát triển thị trường tiền tệ

Về cơ bản, sự phát triển thị trường tiền tệ là một khái niệm rất rộng và có nhiều quan niệm khác nhau, tuy nhiên tựu chung lại xoay quanh khái niệm phát triển thị trường tiền tệ có một số vấn đề cụ thể như sau:

-Về mặt lý thuyết, dưới tác động của phân công lao động xã hội và các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, nền kinh tế thị trường đã được hình thành và phát triển. Kinh tế thị trường phát triển cao, thị trường tiền tệ do đó cũng phát triển theo. Các thị trường bộ phận dần được hình thành một cách tự nhiên theo đúng qui luật. Nhưng trên thực tế, dưới sự tác động tích cực của Nhà nước thống qua cơ chế, chính sách và luật pháp đã góp phần thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các thị trường bộ phận. Nếu thiếu một trong các thị trường bộ phận thì các doanh nghiệp và các nhà đầu tư khó có được những cơ hội và điều kiện thuận lợi bình đẳng trong hoạt động kinh doanh sinh lời; đồng thời tính đồng bộ, ràng buộc, cân đối và liêt kết giữa các thị trường bộ phận bị vi phạm và do đó cản trở sự phát triển của thị trường tiền tệ.

Như vậy, thị trường tiền tệ phát triển được biểu hiện trên 3 góc độ: (i)-Trước hết, muốn có một thị trường tiền tệ phát triển thì cần phải có đầy đủ các thị trường bộ phận. (ii)-Mối quan hệ giữa các thị trường bộ phận phải chặt chẽ, phản ánh đúng bản chất của thị trường tiền tệ. Các thị trường bộ phận phải phát triển cân đối về qui mô và trình độ. Một sự thay đổi hay biến động trên thị trường này sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động của thị trường khác. Chỉ cần một thị trường bộ phận nào đó phát triển không đầy đủ hoặc trì trệ sẽ có tác động tới sự phát triển của thị trường khác, từ đó ảnh hưởng tới hiệu quả tổng thể của toàn bộ thị trường tiền tệ. (iii)-Phát triển thị trường tiền tệ phải nằm trong mối quan hệ tổng thể với các thị trường khác trong nền kinh tế. Đồng thời phải đảm bảo phù hợp với định hướng phát triển kinh tế chung của mỗi quốc gia, phù hợp với xu thế toàn cầu nền kinh tế.


Các góc độ nêu trên phản ánh trình độ phát triển của thị trường tiền tệ theo mức độ tăng dần từ thấp đến cao. Tuy nhiên, phát triển thị trường tiền tệ là cả một quá trình, vì vậy không thể tạo lập đầy đủ các bộ phận thị trường khi chưa hội đủ các điều kiện kinh tế - xã hội mang tính khách quan. Với quy trình như vậy, chắc chắn thị trường tiền tệ sẽ phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, vừa đảm bảo tính linh hoạt, vừa giữ được sự phát triển cân bằng và đồng bộ.

-Thị trường tiền tệ của một quốc gia được đánh giá là phát triển khi doanh số giao dịch của thị trường lớn, các công cụ của thị trường tiền tệ được phát hành với khối lượng lớn và đa dạng, kinh doanh chênh lệch giá trên thị trường phát triển sôi động và có sự kết nối giữa thị trường trong nước với thị trường tiền tệ quốc tế.

-Khi thị trường tiền tệ phát triển ở mức độ cao thì định hướng hoạt động kinh doanh của các NHTM – là các thành viên của thị trường tiền tệ - không phải chỉ đơn thuần là các nghiệp vụ cho vay truyền thống mà là lĩnh vực dịch vụ và nghiệp vụ thị trường, vì nhu cầu vốn trung dài hạn cho phát triển chủ yếu được tài trợ qua thị trường chứng khoán. Các doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt, kinh doanh có hiệu quả đều có thể giải quyết nhu cầu vốn thông qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu công ty với chi phí thấp hơn lãi suất vay ngân hàng. Vì vậy, xu hướng thị trường liên ngân hàng sẽ là thị trường bán buôn lý tưởng để giúp các Trung gian tài chính, NHTM đầu tư nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Thị trường tiền tệ càng phát triển, mức cạnh tranh trên thị trường liên ngân hàng càng mạnh mẽ, khi đó lãi suất trên thị trường liên ngân hàng càng phản ánh chính xác cung cầu vốn của thị trường tiền tệ.

-Thị trường tiền tệ phát triển thể hiện sự phát triển ngày càng phong phú các hình thức kinh doanhh chênh lệch giá đã làm cho lãi suất trên thị trường liên ngân hàng càng phản ánh chính xác cung – cầu về vốn trên thị trường. Trên thị trường tiền tệ phát triển, các chủ thể tham gia thị trường đều kỳ vọng vào thu nhập do chênh lệch giá mang lại thông qua việc đánh giá, dự báo sự biến động của thị trường. Các hình thức kinh doanh chênh lệch giá được áp dụng căn cứ vào vị trí địa lý ( ví dụ như vay vốn ở thị trường Mỹ và gửi vốn ở thị trường Châu Âu),căn cứ vào biến động gía của các công cụ khác nhau (như vay vốn để mua ngoại tệ đầu cơ chờ biến động tỷ giá ); căn cứ vào thời gian và không gian của các giao dịch (mua bán giao ngay và mua bán kỳ hạn) …Và các NHTM vẫn đóng vai trò là các thành viên giao dịch chủ yếu trên thị trường, là Nhà kiến tạo thị trường. Thị trường tiền tệ liên ngân hàng vẫn là thị trường trung tâm, qui tụ tất cả các thị trường khác. Vì vậy, thị


trường tiền tệ phát triển khi có các nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch giá phát triển mạnh, sôi động thì ảnh hưởng của nó tới cung cầu trên thị trường liên ngân hàng càng mạnh và lãi suất trên thị trường càng phản ánh một cách tổng quát hơn cung cầu của thị trường tiền tệ, khi đó tính phân cách của thị trường là không đáng kể.

-Phát triển thị trường tiền tệ được hiểu là sự tăng trưởng của các trung gian tài chính, được phản ảnh bởi sự phân chia, chuyên môn hóa ngày càng tăng lên giữa tiết kiệm và đầu tư. Nói cách khác phát triển thị trường tiền tệ là một quá trình gia tăng về huy động và phân bổ nguồn lực, sự chuyên môn hóa ở mức độ cao của các trung gian tài chính, cung cầu tiền đảm bảo tăng trưởng kinh tế.

-Thị trường tiền tệ phát triển là một thị trường đảm bảo sự luân chuyển vốn luôn luôn thông suốt, thể hiện sự phân bổ nguồn vốn một cách hiệu quả, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của nền kinh tế.

-Lãi suất thị trường tiền tệ dựa trên quan hệ cung cầu tiền tệ.

-Các thành viên thị trường tiền tệ phải là các NHTM và ĐCTC có năng lực tài chính mạnh, hoạt động kinh doanh hiệu quả. Đặc biệt NHTW đóng vai trò là Nhà tổ chức, quản lý và điều tiết thị trường tiền tệ đảm bảo thị trường được vận hành tốt.

-Cơ sở hạ tầng của thị trường, hệ thống máy móc thiết bị, công nghệ thông tin, môi trường pháp lý, nguồn nhân lực…phải đảm bảo đạt tiêu chuẩn quốc tế.

1.2.1.2.Mối quan hệ giữa các thị trường bộ phận của thị trường tiền tệ

Các bộ phận của thị trường tiền tệ, hay còn được gọi là thị trường bộ phận, có mối quan hệ chặt chẽ và tương hỗ không thể tách rời. Các mối quan hệ này được hình thành từ các luồng luân chuyển về vốn giữa các bộ phận, biến động trên thị trường sẽ tạo ra các luồng vốn chu chuyển, từ đó tác động đến quan hệ cung cầu, làm thay đổi những chỉ số phản ánh hoạt động của các thị trường liên quan khác.

Về mặt thời gian, thị trường tiền tệ xuất hiện trước thị trường vốn những đều là những mắt xích trong một “dây chuyền” hoàn chỉnh – hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia và mang tính quốc tế. Theo quá trình phát triển nền kinh tế, thị trường tiền tệ ngày càng trở nên linh hoạt và phức tạp hơn, ranh giới giữa các công cụ truyền thống, giữa các thị trường bộ phận ngày càng mang tính tương đối. Các công cụ tài chính tiền tệ (hàng hóa) được lưu thông đan xen giữa các loại thị trường và được chuyển hóa lẫn nhau. Những công cụ/hàng hóa mới liên tục phát triển, đổi mới có


tính liên kết với tiện ích cao. Đồng thời cũng xuất hiện những công cụ mang tính hỗn hợp với những đặc tính vốn tồn tại tách rời nhau. Các thị trường bộ phận do đó càng trở nên gắn kết và liên thông với nhau chặt chẽ hơn.

-Mối quan hệ trong thị trường tiền tệ - thị trường nội tệ và thị trường ngoại tệ

Lãi suất thị trường đối với nội tệ và ngoại tệ có tác động quan trọng tới tình hình cung cầu vốn trên thị trường. Để thị trường đạt tới điểm cân bằng (trong ngắn hạn) thì điều kiện cân bằng về lãi suất phải đạt được (ví dụ lãi suất nội tệ phải bằng lãi suất ngoại tệ cộng với tỷ lệ tăng giá của ngoại tệ), khi đó lãi suất trên thị trường nội tệ và ngoại tệ sẽ ổn định và tỷ giá cũng được giữ ở mức phù hợp và duy trì trạng thái ổn định.

-Mối quan hệ giữa thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán

Lãi suất được xác định trên thị trường tiền tệ và sẽ tác động đến tỷ suất lợi nhuận mục tiêu mà các nhà đầu tư yêu cầu đối với các loại chứng khoán và làm thay đổi giá cả các loại chứng khoán trên thị trường.

-Mối quan hệ giữa thị trường tiền tệ và thị trường tín dụng

Lãi suất được xác định trên thị trường tiền tệ nếu ở mức cao thể hiện sự khan hiếm vốn trong hệ thống ngân hàng, người dân sẽ có xu hướng gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn. Quá trình tạo tiền thông qua hệ thống NHTM làm tăng lượng tiền cung ứng và đẩy lãi suất xuống tới vị trí cân bằng mới.

Ngân hàng TW có khả năng tác động tới thị trường tiền tệ thông qua các công cụ chính sách tiền tệ tác động vào lượng tiền cung ứng làm thay đổi lãi suất và từ đó tác động lan truyền tới các thị trường khác thông qua mối quan hệ về lãi suất giữa các thị trường.

Ngoài yếu tố lãi suất, các yếu tố khác như tính thanh khoản và độ rủi ro cũng tác động tới sự ưa thích của nền kinh tế đối với các loại tài sản tài chính và hoàn toàn có thể xảy ra sự chuyển dịch tài sản giữa các thị trường với nhau và gây nên những thay đổi trên thị trường.

Tóm lại, các thị trường bộ phận có mối quan hệ khăng khít, biện chứng và tác động lẫn nhau, ảnh hưởng và chi phối đến nhau. Đây chính là một yếu tố tạo nên tính đồng bộ của thị trường.

Ngày đăng: 14/11/2022