1.2.1.3.Cơ sở lý luận của việc phát triển thị trường tiền tệ
Xuất phát từ thực tế về các mối quan hệ giữa các thị trường bộ phận và giữa thị trường tiền tệ với các loại thị trường khác trong nền kinh tế thị trường để xem xét sự phát triển thị trường tiền tệ trên cơ sở sự phát triển của quá trình luân chuyển các luồng vốn trong nền kinh tế.
P.A.Samuelson đã đề cập đến cơ chế cân bằng của các thị trường bộ phận và của toàn bộ thị trường tài chính tiền tệ qua việc phân tích hành vi của các chủ thể tham gia thị trường. Giả sử thị trường ngoại hối đang ở trạng thái với tỷ giá cân bằng A. Do nhu cầu ngoại tệ phục vụ nhập khẩu tăng lên làm sự cân bằng cung – cầu thay đổi, tỷ giá cân bằng mới là A’ (A’>A). Lúc này để ổn định giá trị đồng tiền, NHTW sẽ can thiệp vào thị trường ngoại hối bằng cách bán đồng ngoại tệ để mua vào đồng nội tệ. Tỷ giá sẽ quay trở về mức cân bằng ban đầu A, nhưng cùng với nó, lượng tiền trong lưu thông càng giảm, dẫn đến lãi suất tăng. Lãi suất tăng lập tức tác động đến luồng vốn lưu chuyển từ thị trường chứng khoán sang thị trường tiền tệ mà cụ thể là nhà đầu tư rút vốn khỏi thị trường chứng khoán,đặc biệt là các trái phiếu để chuyển sang gửi tiết kiệm. Do lượng tiền gửi trong ngân hàng tăng lên nên theo cơ chế tạo tiền của NHTM, lượng cung tiền trong nền kinh tế cũng tăng lên. Trong trường hợp các điều kiện khác không đổi, lãi suất sẽ quay về mức cân bằng ban đầu.
Sự phân tích cân bằng của các thị trường bộ phận thị trường tiền tệ trên là cơ sở lý luận cho việc phát triển thị trường tiền tệ, đặc biệt giai đoạn sau khi gia nhập WTO, thị trường tiền tệ có tính liên thông hội nhập với thị trường tiền tệ quốc tế.
1.2.1.4.Các tiêu chí phản ánh sự phát triển thị trường tiền tệ
a-Là kênh huy động vốn tạm thời nhàn rỗi, tạo cung vốn ngắn hạn cho nền kinh tế
Nhờ vào chức năng lưu thông hàng hoá của tiền tệ mà có thể huy động được các nguồn vốn đang ở dạng nằm yên cất trữ, đưa vào quá trình tiêu dùng hoặc sản xuất. Đặc điểm trên của tiền tệ đã hình thành nên việc mua bán quyền sử dụng tiền tệ từ dạng này sang dạng khác trên một thị trường gọi là thị trường tiền tệ. Chính trên thị trường này mà người có tiền chưa cần sử dụng có thể gặp được đối tác là người cần sử dụng để hai bên có thể đạt được mục tiêu đem lại lợi ích cho nhau.
Thị trường tiền tệ đã giúp cho nguồn tiền tệ vận động từ nơi thừa đến nơi thiếu, giúp cho quá trình giao lưu vốn được nhanh chóng và hiệu quả, tận dụng
Có thể bạn quan tâm!
- Những Vấn Đề Cơ Bản Của Thị Trường Tiền Tệ
- Thị Trường Tiền Tệ Trong Cấu Trúc Hệ Thống Của Thị Trường Tài Chính
- Nội Dung Phát Triển Thị Trường Tiền Tệ Sau Khi Gia Nhập Wto
- Sự Cần Thiết Phải Phát Triển Tttt Sau Khi Gia Nhập Wto
- Kinh Nghiệm Phát Triển Thị Trường Tiền Tệ Của Singapore
- Khái Quát Chung Về Sự Phát Triển Của Thị Trường Tiền Tệ Ở Việt Nam
Xem toàn bộ 249 trang tài liệu này.
được các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi đưa vào tiêu dùng cho mục đích sản xuất kinh doanh, đem lại lợi ích cho cả người mua lẫn người bán tiền tệ và đồng thời phục vụ cho sự nghiệp phát triển của nền kinh tế xã hội. Một cách hình ảnh có thể nói, thị trường tiền tệ là địa chỉ của các doanh nghiệp khi cần vốn để dùng trong thanh toán ngắn hạn.
CÁC TRUNG GIAN TÀI CHÍNH
Bên đi vay:
-Doanh nghệp
-Cá nhân
-Hộ gia đình
-Chính phủ
TÀI CHÍNH GIÁN TIẾP
Bên cho vay:
-Cá nhân
-Hộ gia đình
-Doanh nghiệp
THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ
TÀI CHÍNH TRỰC TIẾP
Sơ đồ 1.3. Luân chuyển vốn từ cung sang cầu
Nguồn: Giáo trình kinh tế vĩ mô
Việc chuyển dịch vốn từ bên cung sang phía cầu được thực hiện bằng hai cách:
-Một là, gián tiếp thông qua hệ thống tài chính trung gian như các NHTM, ngân hàng đầu tư, công ty tài chính, v.v...
-Hai là, trực tiếp qua thị trường tài chính dưới hình thức là Chính phủ, các doanh nghiệp, công ty, ngân hàng phát hành các giấy nợ ngắn hạn hay còn gọi là công cụ tài chính ngắn hạn, bán cho người có nhu cầu đầu tư vào các chứng khoán ngắn hạn. Những chứng khoán này là những trái quyền (quyền được hưởng) đối với thu nhập hoặc tài sản tương lai của người vay (người bán chứng khoán ngắn hạn).
Trong khi các chứng khoán này là tài sản Có đối với người mua, thì đồng thời lại là tài sản Nợ đối với người phát hành (người bán).
Để thực hiện cam kết với WTO, Việt Nam cần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các NHTM Nhà nước. Việc tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, thông thoáng và lành mạnh cho các NHTM hoạt động sẽ cho phép huy động khối lượng vốn lớn và nâng cao hiệu quả cho vay đầu tư.
b-Thúc đẩy cầu về vốn tiền tệ, tạo thanh khoản cho thị trường
Tiêu chí này xuất phát từ chức năng thanh toán của tiền tệ. Khi sở hữu giấy tờ có giá, lúc cần tiền để thanh toán, trả nợ hay tiêu dùng, có thể bán trên thị trường tiền tệ. Tính thanh khoản là một trong những đặc trưng quan trọng nhất của thị trường tiền tệ. Sự chuyển hoá các giấy tờ có giá thành tiền sẽ đáp ứng được nhu cầu thanh khoản kịp thời cho người dân và các doanh nghiệp khi cần. Nó tạo ra niềm tin và sự an tâm cho người đầu tư vào việc mua bán các giấy tờ có giá trên thị trường tiền tệ. Không có thị trường tiền tệ, nhiều khoản nợ sẽ không được thanh toán kịp thời và ngược lại nhiều khoản tiền để dự trữ, tồn đọng không được sử dụng hiệu quả.
Để thúc đẩy cầu về tiền tệ, tạo thanh khoản cho thị trường, bên cạnh huy động tiết kiệm, ngân hàng phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu - gọi là giấy tờ có giá - có lãi suất cao hơn so với tiết kiệm. Các loại chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu thường có các thời hạn khác nhau. Vì đã có kế hoạch sử dụng vốn nên lãi suất của giấy tờ có giá luôn cao hơn tiền gửi tiết kiệm có cùng kỳ hạn.
c- Ổn định và điều hoà lưu thông tiền tệ, điều hoà vốn ngắn hạn giữa các trung gian tài chính, phi tài chính, Chính phủ
Từ hai nội dung trên, tiền sẽ được điều từ nơi thừa đến nơi thiếu để tạo ra một sự cân bằng thoả mãn các nhu cầu xã hội. Không có thị trường tiền tệ thì việc điều hoà tiền tệ sẽ không thể thực hiện được, vì lượng cung tiền sẽ không thể tìm ra được lượng cầu đầy đủ. Ngân hàng Trung ương thông qua thị trường mở mua vào hoặc bán ra các Trái phiếu Chính phủ hoặc các công cụ khác có tác dụng bơm hoặc hút tiền tệ lưu thông nhằm điều hoà khối lượng tiền trong lưu thông, làm cho thị trường tiền tệ hoạt động hiệu quả và ổn định hơn.
Nhờ có thị trường tiền tệ, Ngân hàng Trung ương cũng giảm đến mức thấp nhất lượng tiền cung ứng cho các NHTM, tức là giảm được áp lực phát hành tiền
không phù hợp với lợi ích nền kinh tế. Nhờ có thị trường tiền tệ, Chính phủ có thể giải quyết nhu cầu tài trợ ngắn hạn dễ dàng bằng cách bán các tín phiếu kho bạc trên thị trường, Ngân hàng Trung ương bớt đi được áp lực ứng tiền cho Chính phủ và như vậy bớt đi áp lực gia tăng khối lượng tiền phát hành ngoài ý muốn.
Xét theo nghĩa cổ điển thì thị trường tiền tệ là thị trường liên ngân hàng, nên thị trường tiền tệ còn có chức năng cân đối, điều hoà nguồn vốn giữa các NHTM để đảm bảo nguồn vốn kinh doanh hoặc đảm bảo khả năng thanh toán cho các NHTM. Thông qua hoạt động trên thị trường tiền tệ mà Ngân hàng Trung ương điều tiết lưu thông tiền tệ trên phạm vi quốc gia nhằm thực thi chính sách tiền tệ.
d-Đổi mới hệ thống và cơ chế hoạt động của thị trường tiền tệ phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng.
Thị trường nội tệ liên ngân hàng ra đời và phát triển đã đánh dấu một bước đổi mới của thị trường tiền tệ Việt Nam. Trong thời gian mới thành lập, tuy hoạt động của thị trường còn đơn giản, nhưng đã góp phần thúc đẩy cơ chế điều hoà vốn ngắn hạn một cách linh hoạt trong phạm vi toàn hệ thống ngân hàng, từ đó phát huy hiệu quả sử dụng vốn của các NHTM, tạo điều kiện cho các NHTM làm quen với nghiệp vụ quản lý vốn khả dụng trong kinh tế thị trường.
- Tạo lập cơ chế hoạt động cho thị trường tiền tệ:
Về cơ bản, điều hành chính sách tiền tệ nhằm đạt được mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an toàn cho hệ thống ngân hàng; NHNN từng bước sử dụng các công cụ gián tiếp như: lãi suất cơ bản, nghiệp vụ thị trường mở, tái chiết khấu, tái cấp vốn để thay thế cho các công cụ trực tiếp. Thông qua điều hành chính sách tiền tệ, NHNN tác động định hướng và điều tiết hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM để bảo đảm phát triển an toàn và hiệu quả, phục vụ tốt cho tăng trưởng kinh tế và ổn định giá trị đồng tiền.
Cơ chế tín dụng phải tạo cơ hội bình đẳng cho dân cư và doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong việc tiếp cận các nguồn vốn tín dụng của ngân hàng. Bên cạnh đó, NHNN cũng từng bước điều chỉnh chính sách quản lý ngoại hối theo hướng tự do hóa và điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt, có tác dụng thúc đẩy thị trường ngoại hối và hoạt động tín dụng ngoại tệ sôi động hơn. Tăng cường quyền tự
chủ và tự chịu trách nhiệm của NHTM trong hoạt động kinh doanh; xử lý linh hoạt lãi suất tín dụng trên cơ sở cung cầu vốn của thị trường.
Công tác thanh tra, giám sát của NHNN theo hướng nâng cao hiệu quả làm việc của bộ máy thanh tra, tăng cường hoạt động giám sát từ xa. Từng bước thực hiện các quy định về an toàn hoạt động ngân hàng cho phù hợp hơn với thông lệ thế giới. Trên thực tế, đây là những công cụ quan trọng của NHNN trong hoạt động quản lý nhằm bảo đảm cho hệ thống ngân hàng phát triển theo đúng định hướng, an toàn và hiệu quả.
1.2.2. Các điều kiện để phát triển thị trường tiền tệ sau gia nhập WTO
1.2.2.1. Trình độ phát triển kinh tế xã hội.
Thị trường tiền tệ ra đời và phát triển là kết quả của nền kinh tế, và khi thị trường tiền tệ hoạt động, nền kinh tế sẽ có động cơ phát triển mạnh mẽ hơn. Thị trường tiền tệ chỉ đầy đủ và đồng bộ khi hội đủ những điều kiện kinh tế khách quan, đặc biệt là sự phát triển của các loại thị trường khác như thị trường hàng hoá, thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường vốn, v.v... Từ sau Đại hội lần thứ VI đến nay, Nhà nước ta đã tiến hành công cuộc đổi mới quản lý kinh tế và đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Điều đó đã khẳng định con đường đúng đắn là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia chuyển đổi nền kinh tế thành công và cho đến nay đã được công nhận là một nước chính trị ổn định, có môi trường kinh doanh lành mạnh và an toàn. Sự ra đời của thị trường tiền tệ, và gần đây là thị trường chứng khoán là những minh họa cho sự phát triển của nền kinh tế nước ta. Có thể nói rằng thị trường tiền tệ phát triển vừa là yêu cầu tất yếu, vừa là kết quả của một quá trình phát triển lâu dài.
Nhu cầu vốn của các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế là điều kiện cần để phát triển thị trường tiền tệ. Việc khuyến khích đầu tư, khuyến khích mở rộng sản xuất sẽ tạo điều kiện để thị trường tiền tệ phát triển mạnh mẽ hơn. Ngược lại, khi thị trường tiền tệ phát triển mạnh, nhu cầu đầu tư, mở rộng sản xuất của các chủ thể trong nền kinh tế lại tăng lên. Trong điều kiện nước ta hiện nay, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, mức sống chung của dân cư đã được tăng lên rất đáng kể. Nhu cầu đầu tư của thành phần kinh tế tư nhân cũng tăng lên rất nhiều cùng với
những chính sách thông thoáng, khuyến khích đầu tư của các ngành chức năng. Như vậy là tiền đề khách quan cho sự hoạt động của TTTT đã được hình thành, có người có nhu cầu cho vay và có người có nhu cầu đi vay, và một thị trường hiệu quả, một cơ chế hiệu quả để đưa vốn từ nơi thừa tới nơi thiếu vốn sẽ là một việc làm được nền kinh tế chấp nhận dễ dàng.
1.2.2.2. Hệ thống Luật pháp và chính sách kinh tế
Thực tế cho thấy, sau khi hội đủ các điều kiện kinh tế khách quan, thị trường chỉ ra đời và phát triển khi có sự can thiệp của Nhà nước thông qua hệ thống các văn bản pháp quy. Chính vì vậy, sẽ có rất nhiều các văn bản pháp quy điều chỉnh các yếu tố phát sinh trên thị trường như Luật dân sự, Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật tài chính, Luật chứng khoán, v.v... Hệ thống các văn bản pháp quy đồng bộ, chặt chẽ, phù hợp với thực tế chính là điều kiện đủ để thị trường tiền tệ phát triển. Ngược lại, sự chồng chéo, lạc hậu, thiếu sót của khung pháp lý sẽ là một rào cản rất lớn, ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường.
Việc cải cách kinh tế của Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua là những đảm bảo quan trọng cho việc phát triển thị trường tiền tệ. Bên cạnh những chính sách, chỉ thị nhằm kích thích phát triển sản xuất kinh doanh ở tầm vĩ mô, Nhà nước đã chú trọng đến đổi mới quản lý vĩ mô, từng bước tạo môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp thực hiện và phát huy quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của mình. Các cơ quan quản lý Nhà nước, Chính phủ, các bộ ngành và chính quyền địa phương các cấp tập trung vào thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế, không can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước chú trọng đến việc sử dụng các công cụ đòn bẩy về kinh tế như lãi suất tín dụng, giá cả, phân phối lợi nhuận để điều tiết và khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh, buôn bán và dịch vụ.
1.2.2.3. Năng lực thực tế của các Ngân hàng
Hệ thống tổ chức ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của thị trường tiền tệ. Nếu các mô hình tổ chức ngân hàng được thiết lập dựa trên các học thuyết kinh tế phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nước và tùy theo mục tiêu từng thời kỳ thì sẽ trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển của thị trường tiền tệ nói riêng của thị trường tài chính nói chung.
Năng lực và kinh nghiệm của các cơ quan nghiệp vụ trên thị trường tiền tệ là nhân tố quan trọng nhất quyết định tới sự thành công của thị trường. Các cơ quan này định hướng sự phát triển thị trường, điều chỉnh thị trường để không quá “nóng” hay quá “nguội”, can thiệp vào thị trường những lúc cần thiết nhằm đảm bảo tính ổn định tương đối của thị trường. Trong điều kiện thị trường tiền tệ còn quá non trẻ, các cơ quan này cũng chính là những người huấn luyện, đào tạo các nhà đầu tư trên thị trường tiền tệ. Đối với các cơ quan chuyên môn, họ có thể là nhà đầu tư, có thể là trung gian trên thị trường. Chính vì vậy, năng lực và kinh nghiệm của họ sẽ đảm bảo cho sự thông suốt và tính đồng bộ của thị trường.
Một trong những chủ thể quan trọng của thị trường tiền tệ là các nhà đầu tư. Tính phức tạp của thị trường tiền tệ đòi hỏi nhà đầu tư phải có những hiểu biết và kỹ năng nhất định. Hơn nữa, tâm lý của họ ảnh hưởng không nhỏ đến những biến động trên thị trường. Sự do dự của người tham gia sẽ là một cản trở lớn trong việc phát triển thị trường tiền tệ, ngược lại sự nhiệt tình bất chấp cả rủi ro của họ có thể sẽ dẫn đến sự phát triển không đồng bộ của thị trường.
1.2.2.4. Trình độ phát triển của các thị trường liên quan
- Thị trường hàng hoá và dịch vụ.
Thị trường hàng hoá và dịch vụ là bộ phận cơ bản của thị trường đầu ra của nền kinh tế và có vai trò hết sức quan trọng đối với đời sống kinh tế - xã hội. Theo nghĩa hẹp, thị trường hàng hoá và dịch vụ là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các loại hàng hoá và dịch vụ. Mặt khác, khi nói đến thị trường hàng hoá và dịch vụ, chủ yếu là đề cập đến các loại hàng hoá và dịch vụ là sản phẩm cuối cùng và phục vụ tiêu dùng. Các loại hàng hoá và dịch vụ phục vụ sản xuất thường được phân tích sâu hơn trong thị trường các yếu tố sản xuất.
Thị trường hàng hoá và dịch vụ trong thời kỳ chuyển đổi sang kinh tế thị trường là một thị trường hướng tới phát triển đa dạng, cạnh tranh, liên kết chặt chẽ giữa các khu vực trong nước và thế giới, giữa các thị trường hàng hoá và dịch vụ với nhau. Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết và cung cấp các dịch vụ và hàng hoá công cộng. Đồng thời Nhà nước đảm bảo khả năng tiếp cận của mọi tầng lớp xã hội đối với các dịch vụ và hàng hoá thiết yếu. Vì vậy sự phát triển của thị trường hàng hóa và dịch vụ ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của TTTT trong nền kinh tế thị trường.
- Thị trường bất động sản.
Trong các loại hình BĐS thì đất đai có vai trò đặc biệt quan trọng và mọi vấn đề phát sinh trong thị trường BĐS hầu hết đều bắt nguồn từ đất đai. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, khi nói đến thị trường BĐS thì nó được hiểu tương tự là thị trường đất đai và ngựơc lại.
Vấn đề ở đây là xác định và đảm bảo quyền sở hữu đất đai (hay quyền sử dụng đất) của người chủ sở hữu. Sự xác lập rõ ràng và an toàn cao về các quyền đối với đất đai có thể làm gia tăng đầu tư, năng suất và thu nhập. Nếu quyền đối với đất đai được đảm bảo thì một thị trường đất đai có thể hoạt động cho phép chuyển giao tài sản từ một người chủ (hoặc một người có quyền sử dụng) tới một người khác kéo theo đầu tư và công nghệ. Một số nghiên cứu tại Trung Quốc cho thấy đất đai càng dễ chuyển nhượng thì lượng vốn đầu tư cũng cao hơn. Do nhu cầu của phát triển kinh tế thì một thị trường chuyển nhượng đất đai (hay quyền sử dụng đất) là một kết quả tất yếu. Phần lớn các quốc gia có xu thế thúc đẩy sự phát triển của thị trường đất đai nhằm tạo động lực và cơ sở cho tăng trưởng kinh tế.
Do lượng cung về đất đai là tương đối hữu hạn và hầu như không thể thay đổi, tâm lý mong muốn đầu tư vào đất đai và coi đây là tài sản an toàn nhất có thể khiến cho nguồn vốn đầu tư vào đất đai trở lên khổng lồ, tạo ra sự “thăng hoa” về giá cả của đất đai hay quyền sử dụng đất. Do vậy, thị trường BĐS là một trong những thị trường rất mạo hiểm có tính biến động rất lớn. Khi mức giá BĐS tăng, một lượng vốn rất lớn của xã hội sẽ bị “chôn” vào trong đất. Khi thị trường BĐS sụp đổ là sự tan vỡ của hàng loạt tổ chức và cá nhân đầu cơ trong lĩnh vực này. Như vậy, thị trường BĐS có ảnh hưởng trực tiếp đến cung, cầu về hàng hóa trên thị trường tiền tệ.
- Thị trường tài chính
Thị trường tài chính là toàn bộ những quan hệ trao đổi mua bán những sản phẩm tài chính đã được thể chế hoá. Thuật ngữ sản phẩm tài chính ở đây được hiểu với một phạm vi rộng lớn bao gồm các loại giấy tờ có giá trị được đảm bảo bởi luật pháp. Thị trường tài chính có chức năng cơ bản là:
- Cung cấp các dịch vụ tài chính.
- Cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, cá nhân. Chuyển luồng vốn có được từ tiết kiệm thành các luồng vốn đầu tư.