Các mức lãi suất trên TTTT được coi là lãi suất tham chiếu cho các giao dịch về vốn của nền kinh tế. Ví dụ như LIBOR và SIBOR là các mức lãi suất được nhiều Ngân hàng tham chiếu để xác định giao dịch trên thị trường, lãi suất huy động và lãi suất cho vay trên thị trường tín dụng…trên cơ sở cộng hoặc trừ một biên độ phản ánh mức độ rủi ro đối với từng đối tượng giao dịch. Như vậy, nếu NHTW kiểm soát được lãi suất của thị trường tiền tệ thì có thể kiểm soát được toàn bộ nền kinh tế.
1.1.2.4- Cấu trúc của thị trường tiền tệ
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
THỊ TRƯỜNG VỐN
THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển thị trường tiền tệ ở Việt Nam sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới - 3
- N. Gregory Mankiw, Giáo Trình Kinh Tế Vĩ Mô, Nxb Tk, Hà Nội Năm 2000.
- Những Vấn Đề Cơ Bản Của Thị Trường Tiền Tệ
- Nội Dung Phát Triển Thị Trường Tiền Tệ Sau Khi Gia Nhập Wto
- Cơ Sở Lý Luận Của Việc Phát Triển Thị Trường Tiền Tệ
- Sự Cần Thiết Phải Phát Triển Tttt Sau Khi Gia Nhập Wto
Xem toàn bộ 249 trang tài liệu này.
THỊ TRƯỜNG CỔ PHIẾU
THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ
Sân chơi trên thị trường tiền tệ chính là hệ thống các thị trường cấu thành thị trường tiền tệ, bao gồm thị trường tiền tệ liên ngân hàng và thị trường tiền tệ mở rộng. Có thể hình dung thị trường tiền tệ trong cấu trúc của hệ thống thị trường tài chính qua sơ đồ sau.
Thị trường Nội tệ Liên ngân hàng
Thị trường Ngoại tệ liên ngân hàng
THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ LIÊN NGÂN HÀNG
THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ MỞ RỘNG
Thị trường Giấy tờ có giá
Thị trường Tín dụng
Sơ đồ 1.2: Thị trường tiền tệ trong cấu trúc hệ thống của thị trường tài chính
(*)- Thị trường tiền tệ liên ngân hàng
-Khái niệm thị trường tiền tệ liên ngân hàng
Thị trường liên ngân hàng là thị trường bán buôn vốn ngắn hạn giữa các NHTM, các tổ chức tài chính phi ngân hàng với nhau và với Ngân hàng Trung ương nhằm đáp ứng khả năng thanh toán và khả năng sử dụng nguồn vốn của các tổ chức tham gia. Thông qua TT LNH, các NHTM thực hiện trao đổi với nhau các khoản vốn tạm thời thừa ở một số ngân hàng này, với các khoản vốn tạm thời thiếu ở một số ngân hàng khác thông qua các tài khoản của họ ở ngân hàng Trung ương, nhằm bù đắp số thiếu hụt quỹ dự trữ bắt buộc, đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng, bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng. Nói cách khác, thị trường liên ngân hàng là nơi trao đổi vốn khả dụng giữa các tổ chức tài chính trung gian, nhất là giữa các NHTM với nhau. Hay, thị trường liên ngân hàng là thị trường mà ở đó diễn ra quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa các ngân hàng.
Thành phần tham gia thị trường tiền tệ liên ngân hàng là những người kinh doanh chứng khoán chính phủ, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, các công ty phi tài chính lớn, nhưng đông đảo nhất vẫn là các ngân hàng thương mại.
-Đặc điểm thị trường tiền tệ liên ngân hàng
Một là, thị trường liên ngân hàng là thị trường có độ tin cậy rất cao. Các giao dịch trên TT LNH được thực hiện qua hệ thống thông tin liên lạc được kết nối trực tuyến như điện thoại, telex, máy tính, fax, giao dịch qua hệ thống REUTER, sau đó được xác nhận bằng văn bản, điện tín. Hoạt động bằng cách nối mạng giữa các phòng giao dịch của các thành viên tham gia thị trường, và các công ty môi giới nếu có, đó là các ngân hàng, công ty tài chính, và có thể là cả công ty bảo hiểm. Các giao dịch thị trường phần lớn thông qua các nhà môi giới thị trường tiền tệ. Các nhà môi giới này phải được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép. Các thành viên phải là các tổ chức tài chính và với tư cách đó, phải đáp ứng những điều kiện chặt chẽ về vốn và về chuyên môn.
Thành viên tham gia thị trường là NHTW, NHTM cùng các TCTC khác nên các yêu cầu về vốn, ký quỹ, chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và giấy phép hành nghề,v.v luôn được xã hội tôn trọng. Các giao dịch ở đây thường không có tài sản đảm bảo, chủ yếu dựa trên uy tín của hoạt động kinh doanh. Mọi thủ tục pháp lý và giao dịch được đơn giản hóa đến mức tối đa.
Hai là, thị trường liên ngân hàng là thị trường bán buôn vốn ngắn hạn, thường giao dịch vốn ngắn hạn với khối lượng lớn, là quan hệ vay và cho vay lẫn nhau giữa các thành viên (các NHTM, TCTC khác) nên thời hạn vay ngắn hạn, cho vay theo ngày, tháng, và dưới một năm. Do với tính chất luân chuyển vốn giữa các ngân hàng là bổ sung, bù đắp thiếu hụt vốn khả dụng nên có thời hạn ngắn.
Ba là, chủ thể tham gia thị trường liên ngân hàng đa dạng. Chủ thể tham gia thị trường là các ngân hàng, các tổ chức trung gian tài chính, các nhà môi giới, do đặc điểm kinh doanh tiền tệ mà các nhà kinh doanh tiền tệ thường có nhu cầu vốn nhanh nên đã phát sinh quan hệ vay mượn lẫn nhau. Ngoài ra còn có NHTW tham gia với hai tư cách vừa là thành viên, là người cho vay theo mục tiêu của chính sách tiền tệ đồng thời là cơ quan quản lý và cũng có thể là người tổ chức thị trường.
Bốn là, đồng tiền giao dịch trên trị trường liên ngân hàng là nội tệ và ngoại tệ Quan hệ vay và cho vay giữa các ngân hàng trên thị trường liên ngân hàng có thể bằng nội tệ hoặc bằng ngoại tệ tuỳ theo nhu cầu vốn khả dụng cần bổ sung là nội tệ hay ngoại tệ. Quan hệ vay, mua, bán nội tệ hình thành thị trường nội tệ liên ngân hàng. Quan hệ mua, bán ngoại tệ hình thành thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
- Các hình thức giao dịch trong thị trường liên ngân hàng Thứ nhất, quan hệ vay vốn giữa các ngân hàng
Ngân hàng có vốn thừa tạm thời cho ngân hàng thiếu vốn tạm thời vay trong một thời gian thoả thuận, hết hạn vay ngân hàng vay phải thanh toán tiền gửi vay cho ngân hàng cho vay. Thực hiện quan hệ cho vay bằng cách người đi vay và người cho vay ký với nhau hợp đồng vay vốn, thị trường liên ngân hàng thường vay không cần thế chấp là chủ yếu.
Thứ hai, quan hệ gửi vốn giữa các ngân hàng
Ngân hàng gửi vốn vào ngân hàng khác thông qua việc mở cho ngân hàng nhận tiền gửi một tài khoản tiền gửi. Ngân hàng nhận tiền gửi được phép sử dụng tiền trên tài khoản đó. Trường hợp gửi tiền lẫn nhau thủ tục đơn giản hơn so với hình thức cho vay. Khi cho vay phải lập hợp đồng vay vốn và có thể phải có tài sản thế chấp nhưng hợp đồng gửi vốn thường không cần tài sản thế chấp.
Căn cứ đồng tiền giao dịch, tính đặc thù, thị trường liên ngân hàng được phân chia thành thị trường nội tệ liên ngân hàng và thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
(1)-Thị trường nội tệ liên ngân hàng
Thị trường nội tệ liên ngân hàng (còn gọi là thị trường tiền tệ trong nước), là nơi giao dịch các nguồn vốn bằng các đồng bản tệ và hoạt động theo các qui chế quản lý thị trường trong nước do Chính phủ hoặc ngân hàng trung ương nước đó quy định. Thị trường này thực hiện các giao dịch mua bán các giấy nợ ghi bằng nội tệ hoặc việc vay nợ giữa các ngân hàng thương mại, hay giữa các NHTM với NHTW. Các hoạt động này chịu sự chi phối của luật pháp trong nước nhằm nhiều mục đích.
(2)-Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng (ngoại hối)
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng (còn gọi là thị trường ngoại hối), là thị trường mua bán ngoại tệ có tổ chức do Ngân hàng Trung ương thành lập và điều hành, nhằm mục đích tổ chức việc giao dịch ngoại tệ giữa các ngân hàng thương mại được phép kinh doanh ngoại tệ, làm cơ sở cho việc triển khai thị trường ngoại hối hoàn chỉnh ở Việt Nam.
Thông qua thị trường ngoại hối, Ngân hàng Trung ương sử dụng Quỹ điều hoà ngoại tệ với tư cách là người bán và người mua cuối cùng để can thiệp vào thị trường một cách có hiệu quả, nhằm thực hiện chính sách tỷ giá và chính sách tiền tệ của nhà nước. Thị trường ngoại hối là thị trường không có địa điểm về địa lý, do vậy, trên thế giới chỉ có một thị trường ngoại hối duy nhất. Các giao dịch về một ngoại tệ được tiến hành đồng thời ở tất cả các thị trường các nước ví dụ: cùng một thời điểm có thể đồng thời có giao dịch tại Paris, London, New York,…
Sự chuyển hoá vốn giữa hai thị trường làm thay đổi cung, cầu ngoại tệ và nội tệ, do vậy, hoạt động của hai thị trường luôn có mối quan hệ lẫn nhau và chính mối quan hệ đó đã tạo điều kiện để hai thị trường hoạt động hiệu quả, thông suốt và có nhiều sự đồng nhất. Hai thị trường hoạt động như hai bình thông nhau với cơ chế hoạt động do chính các thành viên tham gia hai thị trường quyết định.
Quan hệ giữa hai thị trường còn được thể hiện thông qua mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá, diễn biến lãi suất của thị trường này sẽ ảnh hưởng đến lãi suất của thị trường kia. Khi lãi suất thực của đồng nội tệ tăng lên, lợi tức dự tính đầu tư vào đồng nội tệ tăng, dẫn đến khả năng các ngân hàng di chuyển vốn từ ngoại tệ sang nội tệ thông qua thị trường hối đoái giao ngay. Ngược lại, nếu trên thị trường đồng nội tệ có xu hướng giảm giá so với ngoại tệ, các nhà đầu tư có xu hướng đầu tư vào
ngoại tệ, có thể xảy ra tiền gửi nội tệ tại các ngân hàng giảm, nhu cầu vay nội tệ tăng, để cân bằng các ngân hàng thường phải tăng lãi suất nội tệ nhằm hạn chế việc đầu tư vào ngoại tệ. Như vậy, một sự thay đổi về lãi suất nội tệ đều ảnh hưởng đến hoạt động của hai thị trường này. Sự biến động của tỷ giá cũng làm ảnh hưởng đến cung cầu vốn nội tệ và vốn ngoại tệ giữa hai thị trường. Tỷ giá tăng (giá ngoại tệ tăng) có thể xảy ra xu hướng nội tệ chuyển sang ngoại tệ và ngược lại.
(*)- Thị trường tiền tệ mở rộng
Thị trường tiền tệ mở rộng là thị trường mà đối tượng mua bán bao gồm các ngân hàng, các công ty kinh doanh, môi giới chứng khoán và công chúng. Hay nói cách khác, thị trường tiền tệ mở rộng là thị trường vốn ngắn hạn giữa các chủ thể kinh tế như nhà nước, ngân hàng, doanh nghiệp và cả các cá nhân.
Căn cứ tính chất sản phẩm dịch vụ, thị trường tiền tệ mở rộng được chia thành hai bộ phận đó là thị trường giấy tờ có giá ngắn hạn và thị trường tín dụng.
(1)-Thị trường giấy tờ có giá ngắn hạn
Thị trường giấy tờ có giá ngắn hạn là nơi mua bán trao đổi các giấy tờ có giá ngắn hạn như tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu thương mại, kỳ phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi tiết kiệm,tín phiếu của các công ty tài chính, khế ước giao hàng, v.v...
(2)-Thị trường tín dụng
Thị trường tín dụng là thị trường mà các nguồn vốn được luân chuyển theo nguyên tắc tín dụng để huy động vốn từ những người có vốn và cho vay những người cần vốn nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Căn cứ vào thành viên tham gia, thị trường tín dụng được phân chia như sau:
-Tín dụng ngân hàng: Chủ thể tham gia là các ngân hàng với nhau (là thị trường liên ngân hàng), hoặc giữa các ngân hàng và khách hàng của họ.
-Tín dụng thương mại: Chủ thể tham gia là các doanh nghiệp có quan hệ kinh doanh thường xuyên với nhau.
-Tín dụng Nhà nước: Chủ thể tham gia là Nhà nước và các tầng lớp dân cư.
-Tín dụng tự do giữa các tầng lớp dân cư.
1.1.2.5-Các chủ thể tham gia thị trường tiền tệ
Mọi thành viên trong nền kinh tế đều có thể tham gia thị trường tiền tệ nên họ đều có thể là chủ thể của thị trường này. Thành viên của thị trường tiền tệ gồm hai
loại chính. Loại thứ nhất đại diện cho bên cung vốn, là những tổ chức, cá nhân tạo nên thị trường, như cung ứng hàng hoá, tổ chức việc giao dịch, mua bán, vay mượn, đổi chác, thế chấp, thanh toán, v.v... Loại thứ hai đại diện cho bên cầu vốn, là các nhà đầu tư, doanh nghiệp lớn nhỏ tham gia mua bán hàng hoá trên thị trường và tất cả những người có tài khoản séc. Tuy nhiên sự phân định bên cung và bên cầu cũng chỉ mang tính khái quát và có ý nghĩa trên thị trường sơ cấp, còn trên thị trường thứ cấp các chủ thể tham gia thường xuyên có sự chuyển hóa trong từng mối quan hệ, có lúc xuất hiện với tư cách là cung, nhưng có lúc lại xuất hiện với tư cách là cầu.
Vì vậy, có thể phân chia những thành viên chủ yếu của thị trường tiền tệ ra thành năm loại như sau.
-Kho bạc Nhà nước là tổ chức phát hành tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ.
Kho bạc nhà nước tham gia thị trường tiền tệ chủ yếu để vay nợ, bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước và thực hiện chính sách tiền tệ của Chính phủ. Đối tượng thường xuyên mua tín phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ là các doanh nghiệp, các NHTM, các tổ chức tài chính và các tầng lớp dân cư. Thông qua việc vay nợ và trả nợ, kho bạc nhà nước đã làm tăng thêm thu nhập cho các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư dự trữ tín phiếu kho bạc, phát triển và mở rộng thị trường tiền tệ, mặt khác tín phiếu kho bạc còn là một trong những công cụ quan trọng để thực hiện chính sách tiền tệ. Như vậy, Kho bạc nhà nước là tổ chức cung ứng hàng hoá cho thị trường tiền tệ.
Tín phiếu kho bạc là một loại chứng khoán nợ ngắn hạn của Chính phủ, có mệnh giá phù hợp với sức mua của công chúng, thuận tiện trong việc mua bán, vay mượn, trao đổi, thế chấp, thanh toán, dự trữ cho vay, ứng vốn, tạo tiền, bảo đảm các khoản vay.
-Các Ngân hàng Thương mại là tổ chức phát hành kỳ phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi CDs và phiếu chấp nhận BAs.
Thị trường tiền tệ trước hết là nơi diễn ra quá trình cân bằng khả năng thanh toán theo chiều ngang trong nội bộ hệ thống ngân hàng. Do cơ cấu kinh doanh khác nhau, và những bất ngờ về nhu cầu thanh toán không dự tính trước được, các ngân hàng phải mua bán tiền của Ngân hàng Trung ương với nhau, là khoản tiền dự trữ của các ngân hàng thương mại gửi tại ngân hàng trung ương, qua tài khoản dư có của mình tại Ngân hàng Trung ương.
Hoạt động của thị trường tiền tệ không thể tách rời hệ thống ngân hàng. Theo quan hệ ngang, thị trường tiền tệ chủ yếu là thị trường giữa các ngân hàng. Còn theo quan hệ dọc, thị trường tiền tệ là thị trường giữa một bên là các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng và một bên là Ngân hàng Trung ương. Có tổ chức tham gia hoặc với tư cách là người cho vay, hoặc với tư cách là người vay hoặc thường vừa là người cho vay, vừa là người vay.
-Ngân hàng Trung ương.
Đây là cơ quan Chính phủ chịu trách nhiệm trực tiếp kiểm soát, điều chỉnh hoạt động của các ngân hàng thương mại và cung cấp cho hệ thống ngân hàng khả năng thanh toán cần thiết để đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Ngân hàng trung ương là chủ thể số một đặc biệt quan trọng trên thị trường tiền tệ, là ngân hàng cung ứng tiền cho nền kinh tế thông qua việc thực hiện chính sách tín dụng và chính sách tiền tệ nhằm thực hiện các mục tiêu về tăng trưởng kinh tế, ổn định giá cả, đảm bảo việc làm.
-Nhà đầu tư.
Người đầu tư của thị trường tiền tệ bao gồm các tổ chức tài chính tín dụng và người đầu tư tư nhân tham gia. Nhiều tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng tham gia thị trường tiền tệ như hiệp hội tiết kiệm và cho vay, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng, các tổ chức xã hội, các tổ chức tài chính quốc tế. Những tổ chức này có cùng mục đích như các ngân hàng thương mại, đó là duy trì khả năng thanh toán, cho vay số vốn nhàn rỗi để kiếm lãi và vay vốn khi cần thiết. Người đầu tư tư nhân theo qui luật về lợi ích cá nhân thường chỉ tham gia thị trường tiền tệ khi lãi suất tăng với mục đích là để thanh toán những khoản vay mượn mua sắm, đề phòng những tình huống chưa dự kiến được, và tất nhiên là họ đầu cơ, hy vọng lãi suất tăng cao để kiếm lời.
-Người môi giới và người kinh doanh.
Người kinh doanh tiền tệ (Dealers) là người tạo ra thị trường để các công cụ thị trường tiền tệ lưu thông được, bằng cách báo giá chào mua và thông báo với những người khác, với những người phát hành và những người đầu tư.
Người môi giới tiền tệ (Brokers) hay công ty môi giới là người dẫn dắt hai bên mua, bán chứng khoán gặp nhau để được nhận tiền hoa hồng. Họ không kinh doanh chứng khoán cho mình, phần lớn những người môi giới xuất hiện giữa các ngân
hàng đang mua vốn, hoặc chứng khoán, hay bán vốn cho ngân hàng khác, họ có mặt ở mọi nơi trên thị trường tiền tệ. Đối với người môi giới, hệ thống giao tiếp rất quan trọng. Họ sử dụng điện thoại trực tiếp, hệ thống máy tính truyền tin về giá hiện hành, giá chào bán, giá chào mua.
1.1.2.6 -Các công cụ được trao đổi, mua bán trên thị trường tiền tệ
Để hiểu đầy đủ về phương thức luân chuyển vốn của thị trường tiền tệ, cần nghiên cứu các loại công cụ của thị trường - chính là hàng hoá lưu thông của thị trường tiền tệ. Do có kỳ hạn thanh toán ngắn nên các công cụ nợ được mua bán trên thị trường tiền tệ có mức dao động giá thấp và có rủi ro ít nhất. Các công cụ của thị trường tiền tệ (Money market instruments) là các chứng từ (chứng khoán nợ) có khả năng chuyển nhượng, thể hiện nghĩa vụ của người phát hành phải trả một khoản tiền nhất định vào một ngày đã định thường trong phạm vi một năm cho người sở hữu chứng khoán. Các công cụ này được phân biệt thành hai loại là công cụ chiết khấu và công cụ mang lãi suất.
1. Công cụ chiết khấu là những giấy chứng nhận nợ ngắn hạn không mang lãi suất, được bán với giá chiết khấu và được thanh toán khi đến hạn với đầy đủ mệnh giá. Có một số loại công cụ chiết khấu như sau.
Tín phiếu kho bạc (treasury bills- T.bills).
Tín phiếu kho bạc (TPKB) là loại chứng khoán nợ ngắn hạn của Chính phủ do kho bạc nhà nước phát hành nhằm bù đắp số thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước. TPKB còn là một trong những công cụ quan trọng để ngân hàng trung ương điều hành chính sách tiền tệ.
Thương phiếu (Commercial paper).
Thương phiếu là giấy nhận nợ ngắn hạn do các doanh nghiệp phát hành để tài trợ nhu cầu vốn tạm thời của doanh nghiệp. Tuy có nhiều loại nhưng thương phiếu đều xuất phát từ quan hệ mua bán chịu giữa các doanh nghiệp. Hầu hết thương phiếu có thời hạn dưới 270 ngày, nhưng trên thực tế phần lớn thương phiếu có thời hạn 30 ngày hay nhỏ hơn. Lãi suất của thương phiếu phụ thuộc vào thời hạn thanh toán của nó, vào số lượng tiền vay và vào mức lãi suất chung của thị trường tiền tệ.
Phiếu chấp nhận của ngân hàng (Bankers’ acceptances- BAs).
Chấp nhận của ngân hàng là hối phiếu do doanh nghiệp phát hành và được ngân hàng đóng dấu “đã chấp nhận” lên hối phiếu và có thể được chuyển nhượng.