2.4.1.2. Nguyên nhân của ưu điểm
- Có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời của Đảng, Bộ GDĐT, Bộ VHTTDL; đồng thời, các cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch đã quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo, tổ chức thực hiện nghiêm túc các nghị quyết của Đảng, quy định, chỉ thị của cấp trên về công tác giáo dục - đào tạo trong tình hình mới.
- Đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, tâm huyết với sự nghiệp giáo dục - đào tạo; có trình độ, năng lực, bề dày kinh nghiệm qua thử thách, rèn luyện trong thực tiễn, góp phần rất quan trọng nâng cao chất lượng đào tạo và xây dựng trường.
- Một số văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, Bộ VH,TTDL, Bộ GDĐT, văn bản chỉ đạo của lãnh đạo các cấp được ban hành kịp thời, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho nhà trường. Bên cạnh đó, công tác giáo dục - đào tạo luôn được sự quan tâm đầu tư của Chính phủ, sự giúp đỡ của các Bộ, Ban, ngành Trung ương, của cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương .
- Chi Bộ, BGH nhà trường đã có định hướng đúng đắn trong công tác phát triển đội ngũ GVGV và đã đạt được những thành quả nhất định.
2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.4.2.1. Hạn chế
Những cố gắng trong phát triển đội ngũ giảng viên, giáo viên và cán bộ quản lý đào tạo, dạy nghề du lịch ở các trường tham gia đào tạo, dạy nghề du lịch trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng mới chỉ dừng lại ở các giải pháp tình thế, chưa tìm được hướng đi lâu dài. Công tác phát triển đội ngũ GVGV đào tạo, dạy nghề du lịch còn tồn tại nhiều vấn đề, chưa đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn phát triển GD - ĐT và sự phát triển của ngành Du lịch hiện nay.
Nhìn chung, cơ cấu ĐNGVGV các trường chưa cân đối và hợp lý về tuổi đời, tuổi nghề và giới tính, giáo viên nữ chiếm đa số, ảnh hưởng không nhỏ đến việc sắp xếp, phân công giảng dạy.
Các trường chưa có nhiều tiến sĩ, giáo viên giảng viên có học vị thạc sĩ chiếm tỷ lệ thấp so với yêu cầu chung.
Có thể bạn quan tâm!
- Tổng Quan Về Tỉnh Lâm Đồng Và Du Lịch Lâm Đồng
- Khái Quát Về Các Cơ Sở Đào Tạo, Dạy Nghề Du Lịch Tại Lâm Đồng
- Đánh Giá Về Phẩm Chất Giáo Viên, Giảng Viên Dạy Du Lịch
- Định Hướng Phát Triển Giáo Dục, Đào Tạo, Dạy Nghề Của Tỉnh Lâm Đồng
- Tạo Động Lực Phát Triển Nguồn Nhân Lực Trong Lĩnh Vực Đào Tạo, Dạy Nghề Du Lịch
- Phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực đào tạo, dạy nghề du lịch trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng - 11
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
Hạn chế về năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; đặc biệt thiếu giáo viên tay nghề cao, giàu kinh nghiệm thực tế. Kiến thức chuyên sâu về du lịch của giảng viên, giáo viên tích lũy chủ yếu qua các lớp bồi dưỡng và tự học.
Vẫn còn không ít giáo viên chưa đầu tư nhiều trong việc cập nhật kiến thức mới; chậm đổi mới phương pháp giảng dạy, còn nặng truyền đạt kiến thức, chưa phát huy tính chủ động sáng tạo của HSSV.
Việc sử dụng ngoại ngữ, tin học trong giáo viên còn hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng chuyên môn và là rào cản rất lớn trong việc tạo nguồn đào tạo sau đại học.
2.4.2.2. Nguyên nhân hạn chế
a) Về chủ quan:
- Năng lực cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về giáo dục – đào tạo tại các cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch còn hạn chế.
- Một số giáo viên chưa quan tâm nhiều đến nghiên cứu khoa học, chỉ tập trung cho công tác giảng dạy và học tập nâng cao trình độ chuyên môn.
- Chưa có sự khuyến khích thỏa đáng đối với giáo viên trong việc nâng cao kỹ năng giảng dạy, chất lượng giảng dạy, cải tiến chương trình đào tạo,...
- Kinh phí cho công tác đào tạo, bồi dưỡng còn hạn hẹp.
- Còn một số CBQL, GV chưa thực sự chủ động trong việc tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực quản lý, chưa khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong công tác quản lý nhà trường.
b) Về khách quan:
- Thực tiễn ngành Du lịch đang trong quá trình đổi mới, có những nội dung phát triển ngành chưa được tổng kết để điều chỉnh kịp thời, dẫn đến hạn chế trong chỉ đạo và thực hiện.
- Sự tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường, đời sống vật chất của cán bộ, giáo viên, học viên còn nhiều khó khăn đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục – đào tạo.
Tiểu kết chương 2
Trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới đang ra sức xây dựng nền kinh tế tri thức, thì ở Việt Nam giáo dục nghề nghiệp ngoài mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, còn phải hướng vào việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng thị trường lao động trên thế giới. Giải quyết tốt hai mục tiêu này sẽ góp phần nâng cao chất lượng lao động, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Để đảm bảo chất lượng đào tạo, các cơ sở đào tạo, dạy nghề du lịch trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đã xác định đội ngũ GVGV đóng một vai trò hết sức quan trọng, vì vậy đã nhận thức đúng đắn và quan tâm đến việc phát triển đội ngũ GVGV. Nhưng nhìn chung hiệu quả của công tác này chưa cao, chưa sử dụng và phát huy hết năng lực sẵn có của đội ngũ GVGV. Bản thân đội ngũ GVGV vẫn còn một số chưa thật sự chủ động, sáng tạo trong công tác giảng dạy; ý thức tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ hạn chế.
Vì vậy, để có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về chất lượng đào tạo của nhà trường mà đội ngũ GVGV đóng vai trò quyết định, thì việc phân tích thực trạng phát triển đội ngũ GVGV sẽ là cơ sở để đề xuất các biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên, để đội ngũ GVGV phục vụ đắc lực hơn nữa, hiệu quả hơn nữa cho sự nghiệp đào tạo nhân lực cho ngành Du lịch tỉnh Lâm Đồng, cũng như khu vực Tây Nguyên.
Chương 3.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG LĨNH VỰC ĐÀO TẠO, DẠY NGHỀ DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LÂM ĐỒNG
3.1. Những cơ sở để xây dựng các giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực đào tạo, dạy nghề du lịch tỉnh Lâm Đồng
3.1.1. Xu hướng phát triển du lịch và yêu cầu về nhân lực du lịch trong thời gian tới
Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đã xác định mục tiêu đưa Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn, có đẳng cấp trong khu vực, phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tính chuyên nghiệp, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật đồng bộ, hiện đại; sản phẩm du lịch chất lượng, đa dạng, có thương hiệu, có sức cạnh tranh, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc, thân thiện với môi trường. Đến năm 2015 đón 7 - 8 triệu lượt khách quốc tế; 32 - 35 triệu lượt khách nội địa; thu nhập du lịch đạt 10 - 11 tỷ USD, đóng góp 5,5- 6% GDP, tạo ra 2,2 triệu việc làm trong đó 620.000 việc làm trực tiếp; đến năm 2020 phấn đấu đón 11-12 triệu lượt khách quốc tế; 45-48 triệu lượt khách nội địa; thu nhập du lịch đạt 18-19 tỷ USD, đóng góp 6,5-7% GDP, tạo ra 3 triệu việc làm, trong đó 870.000 việc làm trực tiếp.
Từ mục tiêu và những định hướng chiến lược phát triển du lịch như trên, một số chuyên gia du lịch nhận định về xu hướng phát triển Du lịch Việt Nam trong thời gian tới như sau:
1) Tiếp tục mở rộng quy mô tăng trưởng về lượng trong nửa thập kỷ tới song song với quá trình chuyển dịch sang đầu tư mạnh về chiều sâu vào nửa thập kỷ tiếp theo. Tiếp tục ra đời nhiều sản phẩm mới, điểm đến mới, khu du lịch và công trình du lịch mới, được đầu tư mở rộng,
nâng cấp, đan xen nhiều công trình, sản phẩm có tầm cỡ, chất lượng, có thương hiệu và có yếu tố liên kết toàn cầu.
2) Lượng khách quốc tế và nội địa tiếp tục tăng và tăng mạnh trong nửa đầu thập kỷ, sau đó tiếp tục tăng nhẹ vào nửa thập k ỷ tiếp theo. Khách du lịch ngày cảng trở nên từng trải hơn, khách du lịch nội khối trở nên chiếm ưu thế.
3) Sản phẩm du lịch tiến tới chuẩn hóa đồng thời với quá trình dị biệt hóa, đa dạng hóa hướng tới nhu cầu các phân đoạn thị trường khác nhau. Yếu tố văn hóa và xu hướng du lịch về nguồn gắn với các giá trị lịch sử, giá trị di sản và giá trị môi trường sinh thái làm gia tăng giá trị cho sản phẩm du lịch thông qua yếu tố con người (tri thức, công nghệ) và dần trở thành yếu tố quyết định đến mục đích và sự khác biệt cho chuyến đi.
4) Sản phẩm du lịch có thương hiệu được khẳng định, được kiểm soát chất lượng và được thông tin, quảng bá có địa chỉ tới các phân đoạn thị trường mục tiêu. Xúc tiến quảng bá du lịch dần trở thành yếu tố quy ết định giá trị và định hướng tiêu dùng du lịch.
5) Không gian du lịch sẽ trở nên phong phú với nhiều điểm du lịch mới, đa dạng khi cơ sở hạ tầng, khả năng tiếp cận điểm đến được cải thiện căn bản cùng với hiệu ứng lan tỏa từ các trung tâm du lịch tới các điểm du lịch vệ tinh theo liên kết cụm, vùng và khu vực. Độc quyền địa phương vẫn chi phối song song với quá trình chuẩn hóa quốc gia, khu vực.
6) Liên kết hợp tác đa chiều trở nên phổ biến giữa các vùng địa phương, giữa các nhà cung cấp dịch vụ du lịch với nhau và với tất cả các ngành, lĩnh vực kiên quan. Hoạt động của các hiệp hội nghề nghiệp du lịch vùng, khu vực trong và ngoài nước ngày càng có hiệu quả.
7) Công nghệ thông tin, truyền thông sẽ ngày càng ứng dụng hữu hiệu trong hầu hết các lĩnh vực đặc biệt là lữ hành, phân phối trung gian, xúc tiến bán, đặt giữ chỗ trực tuyến.
Xu hướng phát triển du lịch đặt ra yêu cầu và tác động trực tiếp tới cơ cấu số lượng và chất lượng nguồn nhân lực du lịch. Họ cần phải nâng cao, cập nhật các tri thức mới, nắm chắc khoa học kỹ thuật có liên quan đến ngành nghề, vững vàng về kiến thức chuyên môn, bộc lộ và phát huy được những tố chất tốt đẹp của bản thân để tạo nên được thế cạnh tranh trong môi trường hoạt động nghề nghiệp hiện nay.
Về số lượng nguồn nhân lực: Theo dự báo của Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch, nửa đầu thập kỷ sẽ cần nhiều nhân lực được đào tạo theo các ngành nghề với tỷ lệ tăng thêm hàng năm 9,6% và tăng nhẹ với tỷ lệ 8,1% vào nửa thập kỷ tiếp. Có thể thấy quy mô dịch vụ tiếp tục mở rộng lên lao động lĩnh vực dịch vụ khách sạn, nhà hàng sẽ tăng nhanh hơn. Lao động cần đào tạo ở trình độ đại học, trên đại học, lao động quản lý tăng nhanh hơn mặt bằng chung do nhu cầu quản lý; lao động nghiệp vụ cần nhiều trong thời gian tới như văn phòng du lịch, đại lý lữ hành, hướng dẫn do mở rộng nhiều loại hình du lịch phong phú; nghiệp vụ buồng, bàn, bar cũng tăng cao hơn mặt bằng chung do đây là lĩnh vực cần nhiều lao động dịch vụ. Hầu hết các loại lao động tăng nhẹ trong giai đoạn 2016 - 2020 tuy nhiên nhu cầu nhân lực được đào tạo cơ bản vẫn chiếm tỷ trọng lớn; lao động phổ thông sẽ giảm tương đối và dựa chủ yếu vào số lao động thời vụ.
Về chất lượng nguồn nhân lực: Theo dự báo của Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch thì nhu cầu đào tạo ở trình độ trên đại học tăng 13,1% giai đoạn 2011-2015 và 9, 2% giai đoạn 2016-2020, tăng cao hơn mức tăng trưởng chung; tương tự nhu cầu cần đạo tạo trình độ trung cấp tăng 9,5%/năm giai đoạn 2011-2015 sau đó tăng mạnh hơn ở mức 10,2%/năm giai đoạn 2016-2020 do mức độ chuẩn hóa đã đạt được nhất định. Nhu cầu đào tạo trình độ cao đẳng và đại học tăng cao 10,6%/năm giai đoạn 2011- 2015 song sẽ tăng nhẹ hơn ở mức 7,5%/năm giai đoạn tiếp theo khi lao động
ở trình độ trung cấp được chuẩn hóa và dần thay thế các vị trí quản lý và kỹ năng nghiệp vụ bậc cao.
3.1.2. Chiến lược phát triển du lịch đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng
3.1.2.1. Mục tiêu
- Về khách du lịch: Giai đoạn 2011- 2015 tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 10 – 11%/năm, đến năm 2015 đạt 4,5 - 5 triệu lượt, khách quốc tế chiếm 10%. Số ngày lưu trú bình quân đạt 2,8 ngày. Giai đoạn 2016 - 2020 tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 9 - 10%/năm, đến năm 2020 đạt trên 6,5 triệu lượt, khách quốc tế chiếm 15%. Số ngày lưu trú bình quân đạt 3 ngày. Đến năm 2030 đạt 15 triệu lượt, khách quốc tế chiếm 20%. Số ngày lưu trú bình quân đạt 3,2 ngày.
- Về thu nhập xã hội từ du lịch: Năm 2015, thu nhập xã hội từ du lịch đạt khoảng 10.000 tỷ đồng; dịch vụ chiếm 35,2 - 35,8% tổng GDP toàn tỉnh. Năm 2020, thu nhập xã hội từ du lịch đạt khoảng 13.000 tỷ đồng; dịch vụ chiếm 37,5 - 38% tổng GDP toàn tỉnh. Năm 2030, thu nhập xã hội từ du lịch đạt khoảng 20.000 tỷ đồng; dịch vụ chiếm 50 % tổng GDP toàn tỉnh.
- Về thị trường khách du lịch: Khách nội địa: Tiếp tục khai thác tốt thị trường khách khu vực thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long; đẩy mạnh xúc tiến thu hút thị trường khách các tỉnh phía Bắc và duyên hải miền Trung. Khách quốc tế: khai thác các thị trường khách du lịch quốc tế trọng điểm: Tây Âu, Bắc Mỹ, các nước ASEAN, ... đồng thời mở rộng khai thác các thị trường khu vực Đông Âu, Nhật, Hàn Quốc,...
- Hạ tầng cơ sở vật chất: Tập trung phát triển khách sạn đạt chất lượng 3 – 5 sao, đến năm 2015, toàn tỉnh có 25.000 phòng nghỉ, trong đó số phòng khách sạn từ 1 - 5 sao chiếm 40%; số phòng khách sạn 3 - 5 sao chiếm 50% tổng số phòng khách sạn từ 1- 5 sao. Năm 2020 có 35.000 phòng nghỉ, trong đó số phòng khách sạn từ 1 - 5 sao chiếm 45%; số phòng khách sạn 3 - 5 sao
chiếm 55% tổng số phòng khách sạn từ 1- 5 sao. Năm 2030 có 50.000 phòng nghỉ, trong đó số phòng khách sạn từ 1 - 5 sao chiếm 50%; số phòng khách sạn 3 - 5 sao chiếm 60% tổng số phòng khách sạn từ 1- 5 sao.
- Về lao động du lịch: Năm 2015 thu hút 15.000 lao động hoạt động tại các doanh nghiệp du lịch; 80% lao động trực tiếp phục vụ du lịch được đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ chuyên môn và ngoại ngữ. Năm 2020 thu hút
20.000 lao động hoạt động tại các doanh nghiệp du lịch; 90% lao động trực tiếp phục vụ du lịch được đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ chuyên môn và ngoại ngữ. Năm 2030 thu hút 30.000 lao động hoạt động tại các doanh nghiệp du lịch; 95% lao động trực tiếp phục vụ du lịch được đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ chuyên môn và ngoại ngữ.
3.1.2.2. Giải pháp
- Đa dạng hóa sản phẩm: Đa dạng hóa các loại hình du lịch, tổ chức liên kết hợp tác giữa các cơ sở kinh doanh du lịch, dịch vụ trên địa bàn tỉnh, hình thành các tour, tuyến du lịch nội bộ; Gắn việc đa dạng hóa sản phẩm du lịch với phát triển nông nghiệp công nghệ cao, phát triển văn hóa và các làng nghề truyền thống; Tổ chức các sự kiện văn hóa, thể thao và du lịch để thu hút khách.
- Đầu tư và thu hút đầu tư: Tập trung đầu tư từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước theo hướng đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm; ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng tại các trọng điểm phát triển du lịch, các khu du lịch tổng hợp, khu du lịch chuyên đề, các điểm du lịch tiềm năng ở các vùng sâu, vùng xa; Thực hiện xã hội hóa phát triển du lịch, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia hoạt động du lịch dưới nhiều hình hình thức. Tiếp tục hoàn chỉnh cơ chế quản lý đầu tư, tạo môi trường thông thoáng về đầu tư phát triển du lịch, đơn giản hóa các thủ tục hành chính và phát triển các dịch vụ hỗ trợ đầu tư để thu hút các nhà đầu tư.