21
số hoặc suy giảm dân số sẽ ảnh hưởng đến PTNNL, mà cụ thể là dẫn đến thiếu hụt lao động trên thị trường. Tuy nhiên, gia tăng dân số quá mức, trong một thời gian dài sẽ dẫn đến dư thừa lao động, thiếu việc làm, gây lãng phí xã hội và cản trở việc PTNNL.
1.3.3.4. Vai trò quản lý Nhà nước:
Chính sách và luật pháp có ảnh hưởng quan trọng đến PTNNL ngành du lịch, có thể tạo động lực cho sự phát triển nhưng cũng có thể kềm hãm, làm suy giảm NNL và chất lượng NNLDL. Thể hiện qua một số điểm sau:
- Các chính sách phát triển du lịch, PTNNL du lịch, hợp tác quốc tế về du lịch, hành nghề du lịch sẽ thể hiện rõ định hướng phát triển của ngành làm cho lực lượng lao động, sinh viên, học sinh quyết định tham gia vào ngành du lịch hoặc không tiếp tục tham gia mà chuyển sang ngành khác.
- Chính sách PTNNL quốc gia và định hướng của địa phương sẽ có ảnh hưởng đến PTNNL.
- Các chính sách về GDĐT, dạy nghề ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng NNLDL. Cụ thể như các quy định về mở trường, mở ngành đào tạo, nội dung, chương trình đào tạo; tiêu chuẩn, chế độ đối với giảng viên, giáo viên; chuẩn đầu ra sau khi đào tạo; quy định tiêu chuẩn nghề nghiệp du lịch…
- Một hệ thống các chính sách về an sinh xã hội và phúc lợi xã hội tốt, bền vững góp phần PTNNL du lịch nhanh và bền vững. Nếu các chính sách an sinh xã hội không tốt nó sẽ trở thành rào cản, kìm hãm NNL phát triển. Trong các chính sách về an sinh xã hội thì chính sách tiền lương giữ vai trò quyết định bởi nó là điều kiện cơ bản giúp người lao động thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt vật chất và tinh thần của bản thân và gia đình họ.
1.3.3.5. Khoa học công nghệ:
Khoa học công nghệ tác động mạnh mẽ đến du lịch và theo đó đặt ra những yêu cầu mới đối với nhân lực ngành du lịch. Cụ thể ở các khía cạnh sau:
- Xu hướng và phương thức quảng bá xúc tiến du lịch thay đổi đòi hỏi nhân lực ngành đặc biệt là đội ngũ làm quảng bá, xúc triến, tiếp thị phải có thêm kiến thức về e
– marketing du lịch, ứng dụng công nghệ số, sức mạnh của internet, các nền tảng công nghệ, điện thoại thông minh…
- Phương thức quản trị mới gắn với sự ra đời của các phần mềm quản lý, phần mềm xử lý thông tin, thanh toán… phục vụ cho các cơ sở kinh doanh.
22
- Xu hướng ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý nhà nước như áp dụng Visa điện tử (E - visa); thông tin chính sách trên internet; xử lý thông tin về điểm đến nhằm giảm những tiêu cực do internet mang đến…
- Ứng dụng công nghệ trong đào tạo, giảng dạy.
Khoa học công nghệ mang đến những tiện ích cho người đi du lịch, cho các doanh nghiệp và nhà quản lý nhưng cũng đặt ra yêu cầu phải thay đổi phương thức quản trị, truyền thông tiếp thị, thiết kế sản phẩm, dịch vụ, chính sách đào tạo… cho phù hợp. Điều này đòi hỏi năng lực của NNL hiện có của ngành phải thích ứng được và đáp ứng được với những thay đổi nhanh chóng này. Công nghệ vẫn tiếp tục phát triển và sẽ có những tác động mạnh mẽ đến ngành du lịch đòi hỏi NNLDL phải có năng lực thích ứng cao trước những thay đổi của ngành. Yêu cầu này không chỉ dành cho nhân lực trực tiếp mà cả quản lý các cấp của doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp và quản lý nhà nước.
1.4. HNQT và những tác động của HNQT:
1.4.1. Khái niệm:
HNQT là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ với nhau thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp tác quốc tế vì mục tiêu phát triển của bản thân mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ đó và nhằm tạo thành sức mạnh tập thể giải quyết những vấn đề chung mà các bên cùng quan tâm.
Có thể hiểu HNQT là quá trình các quốc gia liên kết, hợp tác với nhau nhằm chia sẻ về lợi ích, các giá trị, nguồn lực, quyền lực trên cơ sở tuân thủ các thỏa thuận chung giữa các bên.
Nội hàm của HNQT:
HNQT có thể diễn ra trên từng lĩnh vực như kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng, văn hóa, giáo dục, xã hội… hoặc đồng thời diễn ra trên nhiều lĩnh vực với tính chất, phạm vi và hình thức khác nhau.
- Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình mở cửa nền kinh tế, hợp tác nhằm mục tiêu phát triển của các nền kinh tế theo những hình thức khác nhau như: thỏa thuận đơn phương, song phương, hợp tác trong khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Hội nhập kinh tế có thể diễn ra theo nhiều mức độ như: thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA); khu vực mậu dịch tự do (FTA); liên minh thuế quan (CU); thị trường chung; liên minh kinh tế - tiền tệ...
23
Một quốc gia có thể tham gia cùng lúc nhiều tiến trình HNQT. Tuy nhiên, hội nhập kinh tế luôn được xem là nền tảng đầu tiên và quan trọng tạo tiền đề cho hội nhập về chính trị và hội nhập trên các lĩnh vực khác. Nhìn chung, các quốc gia luôn ưu tiên thúc đẩy hội nhập kinh tế.
- Hội nhập chính trị là quá trình các nước tham gia vào các cơ chế quyền lực tập thể nhằm theo đuổi những mục tiêu nhất định và hành xử phù hợp với các luật chơi chung.
- Hội nhập về an ninh quốc phòng là sự tham gia của quốc gia nhằm mục tiêu duy trì hòa bình và an ninh.
- Hội nhập về văn hóa xã hội là quá trình hợp tác nhằm mục tiêu trao đổi về văn hóa, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa, tinh thần tốt đẹp của các dân tộc, các quốc gia; nâng cao trình độ học vấn, giải quyết tốt các vấn đề xã hội như đói nghèo, bệnh tật…
1.4.2. Tác động của HNQT đến ngành du lịch và NNLDL Việt Nam:
Du lịch được xem là ngành dịch vụ kinh tế tổng hợp, chính vì vậy hội nhập về du lịch được xem là tiến trình quan trọng để tham gia vào chuỗi cung ứng dịch vụ mang tính khu vực và toàn cầu cũng như đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
Hiện nay, ngành du lịch Việt Nam đã tham gia hầu hết các tổ chức quốc tế về du lịch, ký kết các hiệp định hợp tác song phương và đa phương về phát triển du lịch, cam kết và mở cửa thị trường dịch vụ du lịch, thừa nhận và áp dụng các tiến bộ của công nghệ vào du lịch.
HNQT mang đến cho du lịch Việt Nam những cơ hội sau:
- Mở rộng thị trường (cả khách quốc tế và khách Việt Nam du lịch ra nước ngoài…);
- Tiếp cận với những tiêu chuẩn dịch vụ du lịch của khu vực và quốc tế;
- Phát triển các loại hình du lịch mới (du lịch MICE1, du lịch tàu biển…);
- Tiếp nhận các nguồn lực hỗ trợ từ các nước phát triển và các tổ chức quốc tế cho đào tạo nhân lực du lịch (liên kết đào tạo, học bổng, hỗ trợ về kỹ thuật…);
- Thu hút vốn đầu tư cho các dự án du lịch;
1 Du lịch kết hợp hội thảo, hội nghị, khen thưởng.
24
- Cơ hội cải cách dưới sức ép cạnh tranh (chính sách của Nhà nước, doanh nghiệp…);
- Cơ hội tăng trưởng và phát triển nhanh nếu nắm bắt được xu hướng và ứng dụng công nghệ…
Bên cạnh các cơ hội, ngành du lịch nước ta cũng phải đối mặt với các thách thức do hội nhập mang đến như:
- Sự chưa sẵn sàng của NNLDL cho quá trình hội nhập (năng lực chuyên môn, tính chuyên nghiệp, ngoại ngữ…còn hạn chế);
- Chính sách chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển (chậm bổ sung, sửa đổi nhằm điều chỉnh những phát sinh từ thực tiễn…);
- Khó khăn trong nắm bắt và thích nghi với xu hướng, các biến động của du lịch thế giới;
- Nguy cơ mất thị trường, thị phần do sự tham gia của các doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;
- Nguy cơ gia tăng sự phụ thuộc và dễ bị ảnh hưởng bởi những biến động của thế giới;
- Sức ép về bảo vệ môi trường (yêu cầu về phát triển bền vững và tính thân thiện với môi trường…);
- Tác động công nghệ đến thói quen, hành vi của khách du lịch...
Toàn cầu hóa và HNQT chính là cơ hội cho du lịch phát triển. Tuy nhiên, thách thức và khó khăn là không tránh khỏi. Đối với nước ta, HNQT cũng đặt ra những thách thức lớn đối với NNLDL, đó là:
- Sự chưa sẵn sàng của NNLDL cho quá trình hội nhập. Thể hiện qua những hạn chế về số lượng, cơ cấu và chất lượng nhân lực của ngành. Năng lực chuyên môn, tính chuyên nghiệp, ngoại ngữ, thái độ làm việc chưa tốt của một bộ phận không nhỏ lao động chính là những trở ngại lớn khi hội nhập.
- Chất lượng đào tạo chưa tốt. Chương trình, nội dung giảng dạy ít được cập nhật các lý thuyết và kỹ năng cũng như những tiêu chuẩn mới của du lịch thế giới; sự thiếu hụt đội ngũ giảng viên, giáo viên giỏi, cơ sở vật chất yếu kém dẫn đến chất lượng đào tạo không phù hợp với nhu cầu thị trường. Lao động sau khi đào tạo có kỹ năng thực hành kém, ngoại ngữ hạn chế, thái độ nghề nghiệp yếu chính là những trở ngại khi hội nhập.
25
- Nguy cơ chảy máu chất xám do dịch chuyển lao động trong khu vực ASEAN theo thỏa thuận đa phương mà nước ta đã ký.
Kiến thức, kỹ năng, thái độ làm việc của đội ngũ lao động giữ vai trò rất quan trọng góp phần mang đến thành công và phát triển của ngành. Do đó, để khai thác tốt các thời cơ, kéo giảm thấp nhất những khó khăn, thách thức do hội nhập mang đến, việc đầu tư PTNNL cần được xem là nhiệm vụ chủ yếu, cấp bách để đảm bảo hội nhập thành công và giúp du lịch Việt Nam có được một vị trí trong chuỗi cung ứng dịch vụ du lịch có chất lượng của khu vực và thế giới.
1.5. Bài học kinh nghiệm về PTNNL du lịch:
1.5.1. Kinh nghiệm của Thái Lan:
Trong nhiều năm qua, Thái Lan luôn là một điểm đến thu hút một lượng lớn khách quốc tế và doanh thu du lịch chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu GDP của Thái Lan. Năm 2016, Thái Lan thu hút 32,7 triệu lượt khách; năm 2017, thu hút khoảng 35,3 triệu lượt khách quốc tế.
Qua nghiên cứu các chiến lược phát triển du lịch của Thái Lan cho thấy họ chú trọng đầu tư phát triển NNL với các mục tiêu cụ thể. Trong chiến lược phát triển du lịch giai đoạn 2015 – 2017, họ xác định quản lý du lịch hiệu quả bằng cách phát triển nhân lực và thông tin của ngành du lịch, đồng thời cải thiện các luật và cơ chế liên quan. Đối với NNL, có chính sách khuyến khích PTNNL, tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ du lịch cả về số lượng và chất lượng, chuẩn hóa về nghiệp vụ, đảm bảo năng lực tham gia vào quá trình phát triển du lịch. Thông thường, đội ngũ chuyên gia và nhân viên làm việc trong ngành du lịch Thái Lan được đào tạo và bồi dưỡng chuyên nghiệp cả về trình độ chuyên môn và tay nghề. Các HDV du lịch nước này được đào tạo nghiệp vụ tương đương nhau, chỉ khác ở trình độ ngoại ngữ tương ứng. Một HDV du lịch người Thái Lan thường biết 3 ngoại ngữ.
Trong kế hoạch phát triển du lịch quốc gia giai đoạn 2017-2021, PTNNL du lịch tiếp tục được đầu tư thông qua đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế; căn cứ nhu cầu thị trường để phát triển giáo trình về du lịch; đẩy mạnh đào tạo cơ bản về kỹ năng chung cho lực lượng lao động du lịch (ngôn ngữ, giao tiếp, công nghệ thông tin và kỹ năng giao tiếp); đào tạo để chuẩn hóa chất lượng đội ngũ điều hành bằng các chương trình thực tế; nâng cao chất lượng tiêu chuẩn của các
26
chuyên gia trong ngành du lịch để phù hợp với nhu cầu của ngành và gắn liền với Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN về Nghề Du lịch.
Có thể thấy ưu điểm PTNNL du lịch của Thái Lan thể hiện rõ hai điểm:
- Một là, họ đã có được NNL đáp ứng cho mục tiêu phát triển của ngành du lịch, đảm bảo cho du lịch Thái Lan phát triển bền vững và cạnh tranh hiệu quả. Mặc dù lượng khách quốc tế tăng nhanh hàng năm nhưng nhân lực vẫn đủ đáp ứng không bị động như ở nước ta.
- Hai là, PTNNL gắn liền với nhu cầu thị trường và chuẩn hóa về nghiệp vụ để giữ vững chất lượng dịch vụ.
Từ nghiên cứu về PTNNL của Thái Lan, tác giả nhận thấy có hai bài học kinh nghiệm đối với TP Hồ Chí Minh: một là, để phát triển nguồn nhân lực đạt chất lượng và đủ về số lượng cần có một hệ thống giải pháp toàn diện, cụ thể với các định hướng và chính sách rõ ràng; hai là, để nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành thì đào tạo NNL phải luôn gắn với yêu cầu thị trường.
1.5.2. Kinh nghiệm của tỉnh Khánh Hòa:
Là một trong số ít những tỉnh, thành có ngành du lịch phát triển trong cả nước. Tỉnh Khánh Hòa xem du lịch là một ngành kinh tế quan trọng của tỉnh, đóng góp lớn vào thu ngân sách và góp phần giải quyết việc làm cho lao động tỉnh nhà, đặc biệt là giai đoạn từ năm 2013 đến nay.
Ưu điểm trong phát triển du lịch tỉnh Khánh Hòa trong giai đoạn này là lượng khách du lịch và doanh thu du lịch tăng nhanh hàng năm, trong đó khách quốc tế tăng cao2, giải quyết việc làm cho một số lượng khá đông lao động.
Tuy nhiên, trong cơ cấu khách quốc tế đến Khánh Hòa trong thời điểm từ 2013
– 2017, khách Nga và khách Trung Quốc chiếm khoảng 80% tổng lượng khách quốc tế. Trong đó lượng khách Trung Quốc năm 2015 tăng đột biến so với năm 2013 với hơn 150.000 khách, tăng hơn 500%, năm 2016 tăng 1853% và năm 2017 tăng kỷ lục
với 4218%.
2 Bảng thống kê khách quốc tế đến Khánh Hòa giai đoạn 2013 – 2017
2013 | 2014 | 2015 | 2016 | 2017 | |
Khách quốc tế | 708.981 | 847.283 | 974.546 | 1.198.393 | 2.030.000 |
Khách Trung Quốc | 27.786 | 32.970 | 182.356 | 542.938 | 1.200.000 |
Tỷ lệ tăng so với năm 2013 | 18,65% | 556,28%, | 1853,99% | 4218,72% |
Có thể bạn quan tâm!
- Tổng Quan Các Công Trình Nghiên Cứu Liên Quan Đến Đề Tài
- Cơ Sở Lý Luận Về Nnl Và Ptnnl Ngành Du Lịch Trong Hnqt. Chương 2. Thực Trạng Ptnnl Ngành Du Lịch Tp Hồ Chí Minh Trong Hnqt.
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Ptnnl Ngành Du Lịch:
- Khái Quát Về Kinh Tế - Xã Hội Và Ngành Du Lịch Tp.hcm:
- Cơ Cấu Lao Động Trong Ngành Du Lịch Tp Phân Theo Giới Tính Và Độ Tuổi
- Thực Trạng Các Nhân Tố Tác Động Đến Nnl Ngành Du Lịch Tp.hcm Thời Gian Qua:
Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.
Nguồn: Hiệp hội du lịch tỉnh Khánh Hòa và tính toán của tác giả.
27
Lượng khách Trung Quốc tăng quá nhanh trong khi nguồn nhân lực không tăng nhiều dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu phục vụ. Từ cuối năm 2015, đặc biệt là năm 2016, hàng loạt vấn đề sai phạm liên quan đến hoạt động lữ hành và kinh doanh du lịch cùng một loạt sai phạm khác xảy ra tại Khánh Hòa mà nguyên nhân chủ yếu là do thiếu lực lượng HDV và nhân lực phục vụ. Lợi dụng tình hình thiếu HDV và các hạn chế trong công tác quản lý, đã xuất hiện tình trạng giả mạo bằng cấp để xin cấp thẻ HDV, sử dụng người không có thẻ HDV để hướng dẫn khách du lịch, sử dụng HDV du lịch người Trung Quốc, thuê HDV Việt Nam làm bình phong đối phó với các đoàn kiểm tra. Bên cạnh đó, xuất hiện tình trạng, các công ty lữ hành và một số doanh nghiệp ở các lĩnh vực khác cho doanh nghiệp Trung Quốc núp bóng kinh doanh lữ hành trái phép, kinh doanh mua sắm, vận chuyển, ăn uống… Lượng khách Trung Quốc tăng nhưng phần lớn doanh thu được chuyển về Trung Quốc, tỉnh thất thu ngân sách và phải giải quyết hàng loạt vấn đề phát sinh từ hoạt động trái phép của các cá nhân và doanh nghiệp Trung Quốc. Đến hôm nay tình hình trên vẫn chưa thể giải quyết dứt điểm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trên, trong đó có hạn chế về dự báo nhu cầu NNL và PTNNL chưa tương xứng với tốc độ phát triển của ngành.
Từ thực tiễn của tỉnh Khánh Hòa, có thể rút ra bài học kinh nghiệm cho TP.HCM, đó là cần tập trung đầu tư cho NNL tương xứng với tốc độ tăng trưởng của ngành du lịch. Trong đó chú trọng phát triển lực lượng HDV và đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về du lịch.
1.5.3. Kinh nghiệm của tỉnh Quảng Ninh:
Quảng Ninh có nhiều lợi thế trong phát triển du lịch, trong đó có di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận. Năm 2017, Quảng Ninh đón khoảng 9,87 triệu lượt khách du lịch, tăng 18% so với năm 2016. Khách quốc tế đạt hơn 4,28 triệu lượt. Tổng doanh thu đạt 17.885 tỷ đồng. Trong 10 năm từ năm 2007 – 2017, lượng khách đến Quảng Ninh tăng 4,2 lần, khách quốc tế tăng hơn 5 lần và tổng doanh thu du lịch tăng 4,8 lần. Khách quốc tế đến Quảng Ninh đa dạng, đến từ nhiều quốc gia, trong đó, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc chiếm tỷ lệ cao.
Quảng Ninh đã phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Quảng Ninh đến năm 2020 tầm nhìn 2030. Theo đó, mục tiêu hướng đến là xây dựng Quảng Ninh trở thành một trung tâm du lịch quốc tế, trung tâm du lịch hàng đầu của quốc gia trên
28
cơ sở hình thành ngành công nghiệp du lịch – dịch vụ, công nghiệp giải trí, công nghiệp văn hóa dựa trên sự sáng tạo và tạo ra sự đột phá, khác biệt và giá trị gia tăng cao. Trên cơ sở quy hoạch và định hướng phát triển du lịch, Quảng Ninh đã kêu gọi đầu tư và đã thu hút được nhiều dự án đầu tư lớn về du lịch, trong đó nổi bật như dự án khu du lịch Tuần Châu, khu tổ hợp vui chơi giải trí Sun World Hạ Long, Quảng trường Mặt trời Hạ Long và hàng loạt khu du lịch, nghỉ dưỡng cao cấp tại Vân Đồn, Móng cái, Uông Bí… Lực lượng lao động ngành du lịch cũng đã tăng trưởng đáng kể. Hiện ngành Du lịch Quảng Ninh có khoảng 30.000 lao động trực tiếp và 40.000 lao động gián tiếp. Trong đó, lao động trực tiếp có trình độ đại học, cao đẳng nghề chiếm 40%; trung cấp nghề chiếm 23%; sơ cấp nghề chiếm 22%; lao động phổ thông là 13%. Riêng khối khách sạn là 13.000 lao động; lữ hành 1.200 lao động; các khu, điểm du lịch là 5.000 lao động; nhà hàng, điểm mua sắm 4.000 lao động; phương tiện vận chuyển 5.000 lao động (tàu du lịch 3.000 lao động).
Quảng Ninh đã triển khai nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của ngành. Tỉnh dành nguồn lực nhất định từ ngân sách nhà nước để đào tạo nhân lực du lịch, đồng thời thúc đẩy xã hội hóa. Tập trung đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng nghề và ngoại ngữ, đặc biệt, ưu tiên phát triển nhân lực du lịch vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số để tăng cường năng lực tham gia của cộng đồng dân cư cho phát triển du lịch. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ mục tiêu phát triển ngành Du lịch, tỉnh đã tăng cường hợp tác đào tạo với các trường đại học, cao đẳng trong nước và nước ngoài có năng lực và uy tín để đào tạo nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển mang tính đột phá của ngành Du lịch tỉnh trong những năm gần đây.
Qua nghiên cứu tình hình phát triển du lịch tỉnh Quảng Ninh, tác giả nhận thấy TP.HCM có thể nghiên cứu học tập kinh nghiệm ở hai mặt sau: một là, đầu tư phát triển du lịch và phát triển NNLDL trên cơ sở quy hoạch do đơn vị tư vấn có uy tín thế giới thực hiện với định hướng rõ ràng, cụ thể, đây là cơ sở rất quan trọng để phát triển nhanh và bền vững; hai là, nhà nước dành một lượng ngân sách nhất định đề đầu tư cho phát triển NNL nhằm đáp ứng được nhu cầu phát triển của ngành không để tình trạng thiếu hụt lao động ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ và uy tín của ngành.