Những Điểm Sáng Ở Một Số Vùng Miền Phát Triển Kinh Tế Nông Nghiệp Dựa Vào Tri Thức


Tri thức công nghệ mới cũng góp phần thúc đẩy các mô hình nuôi trồng thuỷ sản bán thâm canh và thâm canh gắn liền với công nghệ sạch. Các mô hình nuôi thuỷ sản sạch không dùng kháng sinh và các loại hoá chất bị cấm, mô hình thực hành nuôi tôm theo công nghệ mới đã và đang được hướng dẫn ứng dụng, nhân rộng ở nhiều địa phương trong cả nước.

2.2.1.4 Những điểm sáng ở một số vùng miền phát triển kinh tế nông nghiệp dựa vào tri thức

Nhiều vùng đất bao đời nghèo khó, bất lợi về tài nguyên, thời tiết nhờ áp dụng tri thức đã biến những vùng đất tưởng trừng như “đất chết” trở thành những vùng kinh tế mới. điển hình trong số đó như :

Tỉnh Bình Thuận, Vùng đất cát bạc màu rộng lớn thuộc huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận vốn “nổi tiếng” trong cả nước là một vùng đất khô hạn và cằn cỗi thuộc loại nhất nước. Ở nơi đây từ hàng trăm năm trước, có những vùng đất cát bạc màu rộng lớn tưởng chừng không thể duy trì cuộc sống bình thường. Nay nhờ tìm ra loại cây thích hợp (nho"Black Queen") đi kèm kỹ thuật canh tác tiên tiến, những người nông dân nghèo đã vươn lên làm giàu. Trung tâm SEDEC là một cơ quan phi chính phủ của Cộng hòa Liên bang Đức đóng trên địa bàn tỉnh Bình Thuận làm tư vấn giúp nông, ngư dân áp dụng công nghệ mới. Vùng đất cát ở huyện Tuy Phong không chỉ phát triển được cây nho, mà từ lâu bà con nông dân đã phát hiện vùng đất khô cằn này còn phù hợp với cây hành tím, từ năm 1999 đến nay, nhiều người đã áp dụng các tiến bộ kỹ thuật và nhân rộng loại cây này để bán ra thị trường bên ngoài.

Bên cạnh cây nho, cây hành, Bình Thuận đã là “mảnh đất lý tưởng” của thanh long. Ngoài giống thanh long ruột trắng truyền thống, đã có một số cơ sở mạnh dạn phát triển giống thanh long ruột đỏ đang được thị trường ưa chuộng, xuất khẩu sang Châu Âu, Mỹ, Nhật,..Đây là một hướng đi mới nhằm nâng cao sức cạnh tranh của thương hiệu thanh long Bình Thuận...Từ 2006 Thanh Long Bình Thuận – thương hiệu độc quyền trên thế giới được công nhận. Như vậy, từ một vùng đất khô hạn, nhờ biết áp dụng tri thức - chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp và ứng dụng những tiến bộ mới về giống - vùng đất bạc màu Bình Thuận nói chung và huyện Tuy Phong, Hàm Thuận Bắc,..nói riêng đã và đang khẳng định trở thành vùng lợi thế kinh tế với nhiều hộ gia đình vươn lên làm giàu, và đã có nhiều cánh đồng đạt doanh thu 50 triệu đồng/ha.

Hà tĩnh, Vùng đất cát ven biển ở hai huyện Thạch Hà và Cẩm Xuyên xưa kia là vùng “đất chết”, quanh năm chỉ có gió và cát, bão lụt, hạn hán xảy ra thường xuyên. Công ty Công nghệ Việt Mỹ (ATI) tìm thấy ở vùng đất này một tiềm năng rất lớn về thủy sản,


nay đã trở hành một khu nuôi trồng thủy sản khép kín, dựa trên quy trình công nghệ mới. Dự án nuôi trồng và chế biến thủy sản của ATI được triển khai trên diện tích 2000 hecta, vốn đầu tư khoảng 750 tỷ đồng, từ 2003-2008 thu hút khoảng 20 nghìn lao động địa phương. Dự án gồm 7 hạng mục công trình lớn, bao gồm khu nuôi tôm trên cát, với hệ thống ao, hồ xen với vườn cây ăn quả, tạo cảnh quan môi trường, biến vùng cát thành xóm làng sản xuất hàng hoá. Khu nuôi cá lồng trên biển, với hàng nghìn lồng cá được nghiên cứu, chế tạo đặc biệt, có thể chịu được bão cấp 12. Nhà máy chế biến thức ăn thủy sản, cung cấp nguồn thức ăn thủy sản cho dự án và các tỉnh miền Trung. Khu sản xuất giống thủy sản có công suất 200 triệu con/năm. Ngoài ra, còn có Nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu; Công ty sản xuất thiết bị thủy sản và du lịch sinh thái biển; Trung tâm công nghệ thông tin, xúc tiến thương mại.

Nghệ An, mô hình rau - màu Quỳnh Lương (Quỳnh Lưu - Nghệ An): Xã Quỳnh Lương, huyện Quỳnh Lưu có truyền thống trồng rau màu từ lâu đời. Nông dân ở đây rất chăm chỉ, từ hàng trăm năm trước đã kiên trì sống bám cát trồng rau để bảo tồn sự sống, nhưng ngày nay nhờ đổi mới tư duy, ứng dụng kỹ thuật tiến bộ đã vươn lên làm giàu. Là vùng cát bãi ngang ven biển, để bảo đảm độ ẩm cho việc trồng màu là một vấn đề nan giải. Các loại giống hoa, màu năng suất cao luôn được chọn lựa và nâng cao năng suất. Do vậy, bình quân thu nhập từ trồng màu đạt tới 120 triệu đồng/ha/năm. Để mở rộng thị trường, xã Quỳnh Lương đã mở website, qua hỗ trợ của dự án công nghệ thông tin của Sở Khoa học và Công nghệ Nghệ An. Do vậy, số lượng khách hàng trong Nam, ngoài Bắc đặt hàng mua hoa và các loại nông sản của Quỳnh Lương ngày càng tăng.

Tỉnh Vĩnh Phúc, hiện nay tỉnh đã xây dựng 100 trang trại nấm, sản xuất trên 500 tấn nấm/năm ở các xã Thanh Lãng, Hương Canh, Thanh Trù, Hợp Thịnh theo mô hình làng nấm, liên hợp trang trại sản xuất nấm (công nghệ được chuyển giao từ Viện Di truyền nông nghiệp); trồng hoa chuyên canh tại các xã Mê Linh, Tráng Việt, Tiền Phong (huyện Mê Linh) - hình thành vùng chuyên canh sản xuất hoa khoảng 1.000 hecta thay trồng lúa. Các xã nói trên áp dụng công nghệ mới gồm có giống tốt, nhà lưới, vườn ươm, kho mát bảo quản và đóng gói hoa trình độ cao. Các cơ sở này đã trồng được nhiều loại hoa chất lượng cao, trong đó 10% xuất khẩu còn lại tiêu thụ trong nước.

Tỉnh Bến Tre, Bến Tre đã có nhiều mô hình vườn ươm, nhà lưới (107 nhà lưới của nông dân) sản xuất cây giống có gắn nhãn mác hàng hóa của nông dân. Nhiều doanh nghiệp trong nước và nước ngoài cũng đang đầu tư sản xuất và kinh doanh giống cây trồng, vật nuôi với trình độ công nghệ cao như: Công ty CP Group, Công ty Bioseed Genetic, Công ty France-Hybrides Việt Nam,...


Bên cạnh đó rất nhiều tỉnh, vùng, miền cũng đã phát huy những lợi thế làng nghề, những đặc sản cây trái, nông phẩm, phẩm vật địa phương để xây dựng những trang trại, mở rộng và khôi phục những làng nghề truyền thống với số lượng gia tăng không ngừng cả về quy mô và số lượng như các tỉnh Bắc Ninh, Nghệ An, Đà Nẵng, Hải Dương,…

2.2.2 Những thành tựu trong lĩnh vực công nghệ thông tin

Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT), Trong các năm 1996-2000 thị trường công nghệ thông tin tăng trưởng khá tốt, với tốc độ trung bình từ 20%-25%/năm (xem Hình 2.11). Năm 2000 được đánh giá là năm có tốc độ tăng trưởng cao lên đến 30% trong đó nhập khẩu các thiết bị tin học năm 2000 đạt 204 triệu USD. Số máy tính được bán ra trong năm 2000 là gần 250.000 máy trong đó 20% là máy nguyên chiếc (nhập khẩu) và 80% là máy nhái (được hiểu là lắp ráp và cài đặt từ các linh phụ kiện nhập khẩu)

Hình 2.11 Thị trường công nghệ thông tin Việt Nam 1996-2000

Đơn vị tính : Triệu USD


Nguồn Tổng hợp 71 65 Thị trường công nghệ thông tin Việt nam năm 2006 đạt con 1

Nguồn : Tổng hợp [71],[65]

Thị trường công nghệ thông tin Việt nam năm 2006 đạt con số 1 tỷ 15 triệu USD, tăng 22.6% - gấp hơn lần 3 tỷ lệ tăng trưởng chung của thế giới, năm 2007 đạt 1 tỷ 250 triệu USD - trong đó phần cứng tăng 15.8%, phần mềm/dịch vụ tăng 43.9%. Đây là các con số tăng trưởng ấn tượng, cao hơn mức độ tăng trưởng GDP và vượt mức tăng trưởng trung bình của Châu Á và thế giới. Dự báo của IDC cho biết các năm sau con số tăng trưởng ở Việt nam chỉ ở mức 13-15% (chưa tính dịch vụ nội dung số). Các ngành công nghiệp phần cứng, phần mềm muốn tăng trưởng mạnh 35-40%/năm không thể chỉ dựa vào thị trường trong nước mà phải hướng đến xuất khẩu.

Bảng 2.17 Thị trường công nghệ thông tin Việt Nam 2000-2007


Năm

Thị trường phần

mềm/dịch vụ

Thị trường

phần cứng

Tổng

(Triệu USD)

Tăng trưởng

(%)

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.


2000

50

250

300

-

2001

60

280

340

13.3

2002

75

325

400

17.6

2003

105

410

515

28.8

2004

140

545

685

33.0

2005

198

630

828

20.9

2006

285

730

1015

22.6

2007

376

893

1269

25

Nguồn : Báo cáo Toàn cảnh Công nghệ Thông tin Việt Nam 2009-Hội Tin học Tp.HCM Tổng giá trị ngành công nghiệp công nghệ thông tin Việt nam (không tính công nghiệp điện tử gia dụng và viễn thông) năm 2006 là 1.74 tỷ USD - tăng 22.1% so

với năm 2005. Tốc độ tăng trưởng Công nghiệp Phần mềm/Dịch vụ (32%) vẫn cao hơn tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp phần cứng, một phần quan trọng nhờ sự đóng góp của ngành công nghiệp nội dung số và dịch vụ gia công phần mềm cho nước ngòai.

Ngành công nghiệp phần mềm/dịch vụ Việt nam đạt doanh số 360 triệu USD trong năm 2006, trong đó 255 triệu USD từ thị trường nội địa (chiếm 70.1%) và 105 triệu USD từ gia công xuất khẩu (chiếm 29.9%), tăng 44% so với năm trước. Gia công xuất khẩu phần mềm tăng 50%, thị trường phần mềm/dịch vụ trong nước tăng 41.6%. Doanh số công nghiệp phần mềm năm 2007 vượt ngưỡng 500 triệu USD - là mục tiêu chúng ta đã dự kiến đạt trong năm 2005. Chậm 2 năm so với kế họach, tuy nhiên chúng ta hy vọng các năm sau sẽ tăng trưởng cao hơn nữa.

Trong mảng phần mềm/dịch vụ, doanh số dịch vụ đào tạo công nghệ thông tin khoảng 15 triệu USD, doanh số công nghiệp nội dung số khoảng 65 triệu USD - trong đó dịch vụ Game Online 13 triệu USD, dịch vụ gia tăng trên mạng di động 42 triệu USD, quảng cáo trên mạng khoảng 7 triệu USD, còn lại là các nội dung khác.

Bên cạnh việc gia tăng về thị thường và công nghiệp ICT thì thứ hạng xếp hạng ICT của Việt Nam trên thế giới tăng đáng kể. Báo cáo Global IT Report 2007-2008 được công bố tháng 4/2008, Việt nam xếp thứ 73 với 3.67 điểm. Như vậy so với vị trí 82/122, năm nay Việt nam tăng thứ hạng 9 bậc, điểm tăng từ 3.40 lên 3.67. Đây là thành tích cao của Việt nam, sau 2 năm tụt hạng.

2.2.3 Những đơn vị phát triển dựa vào tri thức

Công ty Cổ phần FPT (FPT Corporation), thành lập ngày 13/09/1988, đã liên tục phát triển và trở thành tập đoàn công nghệ thông tin và viễn thông hàng đầu Việt Nam. Trong lĩnh vực kinh doanh, kết thúc năm tài chính 2009, với những nỗ lực trong kinh


doanh, quản trị, doanh số toàn tập đoàn đạt mức 18.751 tỷ đồng (tương đương trên 1 tỷ USD), đạt 109,8% kế hoạch đề ra, tăng 11,6% so với năm 2008. Năm 2009, mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, các lĩnh vực kinh doanh truyền thống của FPT như: Tích hợp hệ thống; Xuất khẩu phần mềm; Viễn thông; Đào tạo và Phân phối sản phẩm công nghệ viễn thông vẫn đạt được kết quả tích cực. Về nhân sự, tính tới 31/12/2009, số lượng cán bộ nhân viên làm việc tại FPT đã đạt tới con số 10.163 . Về cơ cấu tổ chức, FPT hiện có: 11 công ty thành viên: Công ty Cổ phần Hệ thống Thông tin FPT (FPT Information System); Công ty Cổ phần Thương mại FPT(FPT Trading Group); Công ty Cổ phần Viễn thông FPT (FPT Telecom Corporation); Công ty Cổ phần Phần mềm FPT (FPT Software); Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Tin học FPT; Công ty Trách nhiệm hữu hạn Truyền thông Giải trí FPT; Công ty Cổ phần Quảng cáo FPT; Đại học FPT; Công ty Trách nhiệm hữu hạn Phát triển Khu công nghệ cao Hoà Lạc FPT; Công ty Trách nhiệm hữu hạn Bất động sản FPT (FPT Land); Công ty Cổ phần FPT Visky. 3 Công ty liên kết: Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT (FPT Securities), Công ty Cổ phần Quản lý quỹ đầu tư FPT (FPT Capital), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Tiên Phong, Các chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng. Các lĩnh vực hoạt động chính của FPT, Xuất khẩu phần mềm, - Tích hợp hệ thống, Giải pháp phần mềm, Dịch vụ nội dung số, … FPT đang làm chủ công nghệ trên tất cả các hướng phát triển của mình với các chứng chỉ ISO cho tất cả các lĩnh vực hoạt động, CMMi cho phát triển phần mềm. Bên cạnh đó, FPT cũng đang sở hữu trên 1,000 chứng chỉ công nghệ cấp quốc tế của các đối tác công nghệ hàng đầu thế giới. Trong suốt những năm qua, FPT liên tục được bạn đọc tạp chí PC World Việt Nam bình chọn là Tập đoàn tin học uy tín nhất Việt Nam. Nhiều năm nhận giải thưởng “Đối tác doanh nghiệp xuất sắc nhất năm” của Cisco, IBM, HP… và đạt được các giải thưởng: Giải thưởng Sao vàng Đất Việt cho thương hiệu FPT; Giải thưởng Sao Khuê; Các giải thưởng, cúp, huy chương tại các triển lãm, cuộc thi như Vietnam Computer World Expo, IT Week, Vietgames…Sản phẩm và dịch vụ của FPT luôn giành được những giải thưởng cao nhất của Hội Tin học Việt Nam, Hội Tin học thành phố Hồ Chí Minh và Hiệp hội Doanh nghiệp Phần mềm Việt Nam. Với những đóng góp tích cực cho sự phát triển của ngành tin học và viễn thông nói riêng và sự phát triển của nền kinh tế nói chung, FPT đã được Nhà nước trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhất năm 2003.

Công ty Phát triển phụ gia và sản phẩm dầu mỏ (APP), Là đơn vị sự nghiệp chuyển sang mô hình doanh nghiệp khoa học và công nghệ từ năm 1996. Từ những khó khăn ban đầu (không có vốn cấp, không có đất đai, chịu sự cạnh tranh gay gắt), nhưng với


sự nỗ lực vươn lên, đến nay, công ty đã đứng vững trên thương trường và luôn có những công trình khoa học và công nghệ xuất sắc. Hiện nay công ty APP có 120 cán bộ công nhân viên, trong đó có 4 tiến sỹ, 62 kỹ sư và 40 công nhân kỹ thuật. Mỗi năm công ty chi trên 2% doanh thu cho nghiên cứu phát triển (chưa kể kinh phí Nhà nước cấp qua đề tài, dự án). Qua đó, đã có 35 đề tài, dự án được áp dụng trong sản xuất và chuyển giao đầu tư ra ngoài công ty; một số công trình nghiên cứu được các giải thưởng lớn như: giải thưởng Nhà nước (2000), 2 lần giải nhất VIFOTEC (1998, 2002), giải thưởng của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (2002); trên 20 báo cáo khoa học được trình bày ở các hội nghị lớn trong nước và quốc tế. Hiện nay, công ty đang tập trung nghiên cứu các sản phẩm mới thân thiện môi trường, thế hệ mới. Thêm vào đó, công ty đã góp phần xây dựng chuyên ngành khoa học kỹ thuật và công nghệ vật liệu ma sát học ở điều kiện nhiệt đới, đồng thời còn tham gia đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ và kỹ sư.

Công ty cổ phần Traphaco, là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đông dược, đã rất chú trọng đến công tác nghiên cứu khoa học để liên tục đưa ra các sản phẩm mới, chiếm lĩnh thị trường trong nước, tận dụng triệt để kho dược liệu và thảo mộc rất phong phú, đa dạng ở nước ta. Các sản phẩm của công ty được người sử dụng rất ưa chuộng, có uy tín trên thị trường và chất lượng không thua kém hàng nhập ngoại. Trong các năm 2000-2001, Công ty đã tiến hành nghiên cứu, bào chế các loại thảo dược thành dạng thuốc bột Artemether để điều trị bệnh sốt rét. Đây là một giải pháp kỹ thuật mới tại Việt Nam và trên thế giới, đã được cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích năm 2002. Ngoài ra, Công ty đã triển khai quy trình trồng và chế biến các loại dược liệu theo công nghệ sạch, cho ra đời các sản phẩm dược liệu sạch đạt tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới. Các sản phẩm đang được tiêu thụ rộng rãi trong nước và xuất khẩu sang các nước châu Âu, doanh thu năm 2000-2001 từ các dược liệu sạch đạt trên 25 tỷ đồng. Công ty đã được cấp một bằng độc quyền giải pháp hữu ích, 16 bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp, đạt danh hiệu hàng Việt Nam chất lượng cao trong

Trong năm năm liền (1998 - 2002), tháng 1/2004 nhà máy Traphaco Hoàng Liệt với tổng vốn đầu tư 60 tỷ đồng đã chính thức đi vào hoạt động và được cục quản lý dược VN cấp giấy chứng nhận đạt 3 tiêu chuẩn chất lượng quốc tế ASEAN: GMP (thực hành sản xuất thuốc tốt); GSP (thực hành bảo quản thuốc tốt) và GLP (thực hành kiểm nghiệm thuốc tốt). Năm 2006 nhà máy tiếp tục đạt tiêu chuẩn GMP-WHO. Để đáp ứng nhu cầu phát triển, mở rộng sản xuất, năm 2008, nhà máy sản xuất thuốc đông dược tại Văn Lâm- Hưng Yên theo tiêu chuẩn GMP- WHO chính thức đi vào hoạt động. Cũng trong năm này Traphaco chính thức được cấp chứng chỉ thực hành tốt 5S của Nhật Bản. Nhằm minh


bạch hoá hoạt động sản xuất kinh doanh và tạo kênh huy động vốn, tháng 11/2008 Traphaco chính thức niêm yết cổ phiếu trên sàn giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh với mã giao dịch TRA. Ngay lập tức TRA trở thành cổ phiếu bluechips của ngành dược. Từ một vài chế phẩm ban đầu, trong 10 năm trở lại đây, trung bình hằng năm Traphaco đưa ra thị trường 10 sản phẩm mới. Năm 1999 Cty có 103 sản phẩm thì đến năm 2009 Cty đã có trên 200 sản phẩm đăng ký lưu hành trên thị trường. Đặc biệt là trên 70% sản phẩm có nguồn gốc thảo dược. Các sản phẩm của Traphaco đã được đăng ký bảo hộ ở 20 quốc gia trên thế giới.

Với các công trình nghiên cứu khoa học mang tính ứng dụng cao và hữu ích cho ngành y, Traphaco đã đạt rất nhiều giải thưởng uy tín trong nước và quốc tế: Năm 2005 nhận giải thưởng KOVALEVSKAIA cho tập thể khoa học nữ; Liên tục 12 năm liền (1998-2009) đoạt danh hiệu “Hàng Việt Nam chất lượng cao” do người tiêu dùng bình chọn; Nhiều năm liên tiếp đạt giải thưởng Sao vàng đất Việt; Năm 2007, được tặng Huân chương Lao động hạng nhì của Chủ tịch nước cho Công ty, và Huân chương Lao động hạng ba của Chủ tịch nước cho Công đoàn Công ty... TRAPHACO là thương hiệu đứng đầu ngành dược phẩm trong dự án “Khảo sát thương hiệu nổi tiếng tại Việt Nam” do Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Công ty Nielsen - Công ty khảo sát thị trường hàng đầu thế giới thực hiện khảo sát người tiêu dùng trên toàn quốc trong năm 2008.

Tính đến năm 2009 tổng số cán bộ công nhân viên (CBCNV) công ty là 951 người, trong đó nữ chiếm 60%. Năm 2009 tổng doanh thu của công ty đạt 780 tỉ đồng, công ty luôn giữ tốc độ tăng trưởng hàng năm từ 25 đến 35%.

2.2.4 Những khu công nghệ cao

Khu Công nghệ Cao thành phố Hồ Chí Minh, với 38 dự án đầu tư và những sản phẩm có tính thương mại chuyển giao từ công nghệ vật liệu mới na-nô, Khu công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh bước đầu xây dựng được những yếu tố nền tảng trong thực hiện định hướng phát triển, liên kết hoạt động, hướng tới mục tiêu chiến lược của công nghệ cao, phấn đấu trở thành một "không gian khoa học" hội tụ và lan tỏa công nghệ cho vùng kinh tế trọng điểm phía nam. Khu công nghệ cao TP Hồ Chí Minh (SHTP) được thành lập năm 2002, có tổng diện tích 913 ha, cách trung tâm thành phố 15 km. SHTP nằm ở giữa 43 khu công nghiệp, khu chế xuất của vùng kinh tế trọng điểm phía nam, sát Ðại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh là lợi thế lớn để phát triển. SHTP tập trung thu hút đầu tư các ngành công nghệ cao thuộc các lĩnh vực: Công nghệ thông tin và viễn thông; công nghệ tự động hóa, cơ khí chính xác; công nghệ sinh học áp dụng cho y tế và môi trường;


công nghệ vật liệu mới, công nghệ na-nô và năng lượng. Sau bảy năm hoạt động và định hình, Khu công nghệ cao TP Hồ Chí Minh thu hút 38 dự án đầu tư trong và ngoài nước với tổng vốn đăng ký 1,729 tỷ USD. Trong đó 17 dự án về vi điện tử và công nghệ thông tin, sáu dự án lĩnh vực tự động, bảy dự án về dịch vụ công nghệ cao, hai dự án đào tạo. Hiện Ban quản lý đang xem xét cấp phép cho năm dự án với tổng vốn 171 triệu USD. SHTP có 13 doanh nghiệp đi vào hoạt động, 14 dự án đang xây dựng, tám dự án đang triển khai. SHTP đã thu hút được một số tập đoàn có tiếng trên thế giới vào đầu tư như Intel, Jabil Circuit của Mỹ, Sonion của Ðan Mạch, Nidec của Nhật Bản... Lớn nhất là dự án Intel đầu tư một tỷ USD cho nhà máy lắp ráp và kiểm định chipset, chiếm gần 60% tổng vốn đăng ký đầu tư hiện nay tại SHTP…..

Khu Công nghệ cao Hòa Lạc, được thành lập theo Quyết định số 198/1998/QĐ- TTg ngày 12 tháng 10 năm 1998. Với tổng diện tích 1586 ha, Khu Công nghệ cao Hoà Lạc được xây dựng theo mô hình thành phố khoa học với đầy đủ các dịch vụ tiện ích với 4 phân khu chính: Khu Công nghiệp công nghệ cao (cho các công ty thuê đất để sản xuất); Khu Nghiên cứu, triển khai và đào tạo, Khu Phần mềm, Khu Thương mại - dịch vụ công nghệ cao (trung tâm hội nghị quốc tế, trung tâm hội chợ triển lãm, Vườn ươm doanh nghiệp công nghệ cao...). Được hình thành ý tưởng từ năm 1992, nhưng đến năm 1998, Khu Hoà Lạc mới có quy hoạch chi tiết. Cách thủ đô Hà Nội 30 km về phía Tây, là một bộ phận trong chuỗi đô thị phát triển không gian Hà Nội về phía Tây của Chính phủ với rất nhiều dự án trọng điểm như: Khu Liên hợp thể thao quốc gia, Trung tâm Hội nghị quốc gia, Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam, Cụm Công nghiệp tỉnh Hà Tây, vv.. Nằm trong khu vực tập trung trên 60% năng lực khoa học và công nghệ của cả nước, giữa quần thể các cơ sở mới của nhiều trường đại học, nhiều viện nghiên cứu có tiềm năng phong phú về nguồn nhân lực trình độ cao như Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học Kiến trúc, Đại học Quốc gia Hà Nội...

Khu công nghệ phần mềm Quang Trung, được khởi công xây dựng từ tháng 10/2000, chính thức hoạt động vào ngày 16/3/2001, Công viên phần mềm Quang Trung là một trong 12 công trình trọng điểm cho kế hoạch phát triển của thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2000-2005. Với diện tích trên 430.000m2, Công viên phần mềm Quang Trung hiện có 104 doanh nghiệp công nghệ thông tin đang hoạt động (55% là của nước ngòai) với 15.000 người thường xuyên làm việc và học tập trong đó có 3.500 kỹ sư, kỹ thuật viên sản xuất phần mềm. Được chia làm các khu vực với chức năng khác nhau như khu sản xuất phần mềm và dịch vụ công nghệ thông tin, khu triển lãm, khu nhà ở và khu vực giải trí nhằm đảm bảo các điều kiện hoạt động về ăn ở, sinh sống, làm việc và giải trí cho các

Xem tất cả 232 trang.

Ngày đăng: 05/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí