chuyên viên công nghệ thông tin. Công viên phần mềm Quang Trung đang cung cấp một môi trường xanh, sạch để có thể phục vụ cao nhất cho nghiên cứu khoa học với mục tiêu thu hút 20.000 người đến học tập và làm việc vào năm 2010.
Trên đây là một số điểm sáng mà luận án chỉ ra trong muôn vàn điểm sáng, cách làm năng động, sáng tạo, biết dựa vào tri thức, nhằm tạo ra sự đổi mới và phát triển theo hướng kinh tế tri thức ở nước ta. Đáng chú ý nhất là các khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, các doanh nghiệp dựa vào sáng chế, công nghệ mới, các doanh nghiệp khoa học công nghệ, kinh doanh trong lĩnh vực ICT... Đó chưa phải hoàn toàn những cũng là những bước phát triển trong giai đoạn đầu đi vào kinh tế tri thức, đó cũng là những đơn vị biết tiếp thu những tri thức mới, công nghệ mới để đổi mới sản xuất kinh doanh, đem lại hiệu quả rõ rệt. Những nhân tố mới đó nói lên rằng, chính sách chuyển sang nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế thế giới, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân thực sự là động lực cho phát huy mọi năng lực sáng tạo, hướng tới kinh tế tri thức. Nếu tiếp tục đổi mới hơn nữa theo hướng đó thì sẽ tạo được những bứt phá mạnh mẽ trong phát triển kinh tế ở nước ta theo hướng kinh tế tri thức. Thực tế đó nói lên rằng đẩy vận dụng phát triển kinh tế tri thức đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa có tính khả thi và thậm chí đã trở nên cấp bách, bởi vì nước ta cần và buộc phải hội nhập với thế giới đang phát triển ngày càng nhanh, với một nhịp độ và chất lượng dựa trên những thành tựu KH&CN và tổ chức quản lý mới nhất.
2.3 NHỮNG HẠN CHẾ TRONG TIẾP CẬN VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA VÀ NGUYÊN NHÂN
2.3.1 Thiếu vắng một chiến lược tổng thể về xây dựng và phát triển kinh tế tri thức tận dụng tối đa điều kiện hội nhập quốc tế
Cho đến nay, mặc dù nội dung xây dựng và phát triển kinh tế tri thức đã được Đại hội Đảng IX, X ghi vào văn kiện như một bộ phận cấu thành của chiến lược phát triển Kinh tế - Xã hội quốc gia, văn kiện đại hội Đảng XI cũng một lần nữa khẳng định đưa kinh tế của nước ta tiến vào kinh tế tri thức và xác định rõ trong bối cảnh quốc tế hiện nay thì kinh tế tri thức phát triển mạnh, con người và tri thức trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia, song trên thực tế, quá trình cụ thể hóa tư tưởng này vẫn chưa đạt được những bước tiến đáng kể. Cho đến nay, theo nghĩa đích thực của chiến lược phát triển (tức là một chiến lược đủ các yếu tố triển khai hành động đặt trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu và rộng) ở tầm quốc gia, Việt Nam vẫn chưa có. Đây là sự khiếm khuyết mang tính cơ sở cho mọi quá trình phát triển, đặc biệt là những quá trình phát triển mang tính cục bộ. Việc thiết kế chiến lược (thậm chí chỉ là phương hướng) phát triển kinh
tế tri thức của chúng ta sẽ gặp những hạn chế về tầm nhìn (cả về không gian lẫn thời gian) do nó chưa có một chiến lược quốc gia tổng thể để xuất phát từ đó và dựa vào đó như căn cứ quan trọng nhất bảo đảm tính khả thi và hiệu quả.
Riêng việc tiếp cận đến vấn đề kinh tế tri thức nói chung, đến việc xây dựng các chiến lược phát triển kinh tế tri thức cụ thể nói riêng trong khuôn khổ một chiến lược phát triển kinh tế xã hội tổng thể dài hạn cũng chỉ mới đi những bước đầu tiên. Trong giai đoạn 2001-2010, trong số các chương trình lớn, có chương trình ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, xây dựng và đi vào hoạt động của khu công nghệ cao, Công viên phần mềm Quang Trung (Thành phố Hồ Chí Minh), Khu công nghệ cao Láng - Hòa Lạc (Hà Nội). Có thể coi đây là những điểm khởi động chính thức và mang tính đột phá của việc thực hiện tầm nhìn phát triển hướng tới nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên, cần đánh giá một cách khách quan và khoa học rằng điều đó là chưa đủ để đáp ứng yêu cầu tranh đua phát triển của chúng ta trong thời đại ngày nay. Cái chúng ta cần có và phải có sớm trước tiên là một chương trình xây dựng và phát triển kinh tế tri thức tổng thể. Cũng như bất cứ một chương trình mục tiêu cụ thể nào khác, chương trình phát triển công nghệ thông tin, Công nghệ viễn thông - một bộ phận cụ thể, một “tập con” của chương trình tổng thể đó - chỉ có thể được bảo đảm về tính hợp lý trong cơ cấu và lộ trình, tính hiệu quả trong thực hiện một khi nó được thiết kế và thực hiện trong sự kết nối với chương trình tổng thể. Việt Nam cần sớm triển khai xây dựng chương trình này vì đây là bước đi đầu tiên mang tính quyết định toàn bộ lộ trình tiến lên kinh tế tri thức.
2.3.2 Các điều kiện vật chất - kỹ thuật để phát triển kinh tế tri thức vẫn còn thiếu và yếu trên nhiều phương diện
Có thể bạn quan tâm!
- So Sánh Hệ Thống Đổi Mới Của Việt Nam Và Một Số Nước 2009
- Tốc Độ Tăng Trưởng Gdp Và Hệ Số Icor Của Việt Nam, 1991-2009
- Những Điểm Sáng Ở Một Số Vùng Miền Phát Triển Kinh Tế Nông Nghiệp Dựa Vào Tri Thức
- Những Thuận Lợi, Khó Khăn, Cơ Hội Và Thách Thức Dưới Góc Độ Phát Triển Kinh Tế Tri Thức Ở Nước Ta Trong Điều Kiện Hội Nhập Quốc Tế
- Tận Dụng Thời Cơ Hội Nhập Quốc Tế, Phát Huy Năng Lực Nội Tại Kết Hợp Với Nguồn Lực Bên Ngoài Cho Phát Triển Kinh Tế Tri Thức
- Phương Hướng, Mục Tiêu Tiếp Cận Và Phát Triển Kinh Tế Tri Thức Giai Đoạn 2011 - 2020 Và Tầm Nhìn 2030
Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.
Mặc dù điều kiện vật chất - kỹ thuật xuất phát của Việt Nam trong những năm qua có nhiều cải thiện đáng kể, song đối diện với yêu cầu phát triển, nhất là yêu cầu “tốc độ cao”, những điều kiện đó quả thực là còn quá nghèo nàn và thấp kém so với các nước trong khu vực chứ chưa thể so với những nước phát triển cao trên thế giới. Điều kiện hiện nay còn xa mới tương xứng với vị thế đáng có của quốc gia trong khu vực.
Một là, tình trạng thừa lao động giản đơn và thiếu lao động tay nghề cao còn nặng nề. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động ở khu vực thành thị còn cao (chín tháng đầu năm 2010 là 2,88%, con số này là 2,9% năm 2009 và 2,8% năm 2008). Tuy nhiên, số lao động đã giải quyết việc làm hầu hết là lao động giản đơn chứa hàm lượng chất xám không cao (lực lượng lao động có trình độ trung học trở lên chiếm 27,8% lực lượng lao động trong độ tuổi). Tình trạng thất nghiệp tồn tại và thiếu lao động tay nghề cao có nghĩa là trước hết, Việt Nam phải ưu tiên giải quyết vấn đề việc làm, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực. Cũng có nghĩa là phải ưu tiên một bộ phận vốn đang khan hiếm, thay vì dành cho việc tạo lập các cơ sở trực tiếp của quá trình phát triển kinh tế tri thức, lại phải dành cho nhiệm vụ tạo việc làm ở trình độ phổ thông và nâng cấp trình độ tay nghề. Đó là chưa kể những chi phí vật chất không nhỏ mà chúng ta buộc phải dành cho việc giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường, tệ nạn xã hội do tình trạng thất nghiệp sinh ra.
Hai là, áp lực đô thị hóa gia tăng nhanh, trong khi năng lực giải tỏa áp lực lại quá hạn chế. Giờ đây chúng ta lại phải đối mặt với không chỉ yêu cầu xây dựng một quốc gia Công nghiệp và Dịch vụ hiện đại theo nghĩa thông thường mà còn là một quốc gia - toàn cầu hóa hội nhập sâu rộng và có định hướng phát triển kinh tế tri thức. Trong khi đó, thực tế cho thấy, tốc độ đô thị hóa của chúng ta diễn ra nhanh nhưng để lại quá nhiều hậu quả về môi trường và vấn đề xã hội. Nhiều vấn đề tối thiểu cơ bản (cung cấp điện, nước, giao thông vận tải, nhà ở, trường học) của đời sống đô thị vẫn chưa giải quyết được triệt để; chưa nói đến yêu cầu tạo lập các điều kiện cơ bản cao hơn cho phát triển (hệ thống thông tin liên lac, dịch vụ tài chính – ngân hàng viễn thông, mạng Internet phổ cập và giá rẻ,..). Không có những huyết mạch này, nhất là các huyết mạch liên quan đến việc lưu chuyển các nguồn lực hiện đại (dòng thông tin, tri thức, các kênh dịch vụ “kinh tế mềm”), thì chắc chắn sẽ không có chuyển động nào về phía nền kinh tế tri thức. Thực sự đây là những đòi hỏi rất bức xúc. Nếu không có cách giải quyết triệt để sớm thì hậu quả phát sinh của chỉ từng vấn đề trong số đó thôi cũng đủ làm tiêu tan hay làm lỡ nhịp các chương trình và dự án hướng tới kinh tế tri thức.
Một vấn đề nữa không kém phần quan trọng là cho đến nay, quy hoạch phát triển đô thị tổng thể của các thành phố cũa nước ta với một tầm nhìn xa vẫn còn đang trong quá trình xây dựng, Quy hoạch này lại chưa được đặt trên những cân nhắc đầy đủ liên quan đến triển vọng phát triển theo hướng tạo dựng nền kinh tế và xã hội tri thức.
Ba là, nguồn nhân lực chất lượng cao bị thiếu hụt nghiêm trọng. Mặc dù xét theo các chỉ tiêu số lượng, nguồn nhân lực có trình độ của Việt Nam không phải là quá yếu kém. Song nếu xét theo các tiêu chí chất lượng nguồn nhân lực cụ thể và mang tính triển vọng mà nền kinh tế tri thức đòi hỏi thì phải nói rằng nguồn nhân lực hiện có vẫn là đang ở mức thấp. Có hai điểm bất tương thích lớn nhất là (1) thiếu nghiêm trọng số lao động có kỹ năng cao và (2) độ “lệch pha” rất lớn giữa cơ cấu nghề đào tạo và nhu cầu thực tiễn. Hệ thống đào tạo đang bị chi phối bởi nguyên lý “đào tạo để đào tạo” (chạy theo thành tích đào tạo) hơn là đào tạo theo nhu cầu của cuộc sống. Trên thực tế, chúng ta vẫn thiếu nghiêm trọng nguồn nhân lực có kỹ năng cao và chất lượng tri thức phù hợp với đòi hỏi của yêu cầu phát triển của thực tiễn xã hội và đòi hỏi của nền kinh tế tri thức.
2.3.3 Trình độ phát triển kinh tế thị trường còn thấp
Việc phát triển nền kinh tế tri thức giả định một điều kiện nền tảng là mức độ phát triển cao của hình thái phát triển trước đó : nền kinh tế thị trường và trình độ công nghiệp phát triển. Công nghiệp hiện đại tạo ra các điều kiện vật chất - kỹ thuật cần thiết để tạo nền móng kiến trúc nên tòa lâu đài kinh tế tri thức. Còn kinh tế thị trường lại mang lại cho sự phát triển, cho quá trình chuyển lên kinh tế tri thức một môi trường thể chế thích hợp (khuyến khích sự sáng tạo). Mặc dù phải nỗ lực tăng trưởng nhanh và rút ngắn quá trình phát triển sớm thoát khỏi tình trạng tụt hậu phát triển, nền kinh tế Việt Nam cũng không thể bỏ qua được một số “công đoạn” tuần tự cơ bản của logic phát triển. Nền tảng thể chế cho kinh tế thị trường, về nguyên tắc, là yếu tố đòi hỏi phải có trong logic “tuần tự” của quá trình tiến lên kinh tế tri thức.
Trong gần 25 năm đổi mới vừa qua, Việt Nam đã tiến những bước dài trong sự phát triển kinh tế thị trường; đã tạo lập được nhiều yếu tố thể chế quan trọng ở cả hai khía cạnh - thị trường và mở cửa - nhằm thúc đây hướng phát triển này. Tuy nhiên, so với yêu cầu đề ra, vẫn còn nhiều việc phải làm. Nếu đặt trong tương quan so sánh với một số nước trong khu vực như Thái Lan, Singapore, Malaysia thì ở khía cạnh thể chế này, có thể nói chúng ta đang có những yếu tố “dậm chân và tụt hậu”. Đánh giá một cách công bằng, có thể thấy khu vực kinh tế nhà nước đang vẫn chiếm tỷ trọng cao. Đây là hệ quả của sự tác động tổng hợp của nỗ lực phát triển kinh tế nhà nước, của việc chậm nhịp cổ phần hóa các DNNN và sự phát triển dưới mức tiềm năng của khu vực kinh tế tư nhân. Nhiều mảng quan hệ thị trường ở cũng phát triển thiếu đồng bộ. Thị trường bất động sản, thị trường lao động và đặc biệt, thị trường khoa học và công nghệ, là những thể chế thị trường còn kém phát triển. Sự thiếu đồng bộ này dẫn tới hệ quả là :
Thứ nhất, mức độ khuyến khích phát triển chủ động và sáng tạo của môi trường kinh doanh ở Thành phố đối với các doanh nghiêp và cá nhân còn thấp;
Thứ hai, chưa có sự kết nối chặt chẽ và hiệu quả giữa các yếu tố thị trường - công nghiệp - khoa học. So sánh với mặt bằng chung của khu vực, Việt Nam vừa có tiềm lực phát triển về công nghiệp, khoa học công nghệ không nhỏ. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn thiếu một khâu nối thị trường có hiệu quả gắn kết hai lực lượng hùng hậu và tập trung này. Khoa học không gắn chặt với các nhu cầu phát triển kinh tế thực tế; trong khi các cơ sở công nghiệp quốc doanh, do vẫn còn ảnh hưởng của thói quen được bao cấp, cũng hầu như không có nhu cầu gắn với khoa học để nâng cao hiệu quả sản xuất và năng lực cạnh tranh của mình.
Việc thiếu vắng các yếu tố thị trường còn dẫn tới chỗ làm cho sự kết nối lực lượng khoa học công nghệ trên chính địa bàn các thành phố, giữa các thành phố với các địa phương khác hầu như rất yếu hoặc với hiệu quả còn thấp. Tính cạnh tranh giữa các cơ sở nghiên cứu và đào tạo hầu như không có. Hoặc nếu có thì chủ yếu trong hoạt động đào tạo, đôi khi chạy theo số lượng mà chưa theo kịp yêu cầu của nền kinh tế và chưa được kiểm soát bằng các quy chế nghiêm ngặt.
2.3.4 Tính sẵn sàng cho hội nhập và phát triển chưa cao
Phát triển nhập cuộc vào quá trình hội nhập quốc tế và hướng tới kinh tế tri thức chưa cao ở tất cả các tầng lớp, các cấp độ chủ thể, từ cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp (bao hàm giới kinh doanh), cho đến các cơ sở và cá nhân các nhà khoa học. Hiện nay, vẫn chưa đạt được một nhận thức rõ ràng và mang tính thực tiễn đúng đắn về vai trò của doanh nghiệp, doanh nhân, của các tổ chức nghiên cứu - đào tạo và người làm việc trong lĩnh vực khoa học công nghệ với tư cách là những chủ thể hành động trực tiếp và chủ yếu quyết định sự phát triển. Cách nhìn chính thống vẫn khá xa lạ với ý tưởng rằng khác với nền kinh tế nông nghiệp và khác với nền kinh tế hóa tập trung bao cấp, trong nền kinh tế thị trường, nếu lực lượng này chưa sẵn sàng hành động thì chưa thể nói gì đến một triển vọng phát triển kinh tế lạc quan. Sẵn sàng và chủ động nhập cuộc (sẵn sàng hội nhập, chấp nhận “cuộc chơi” hướng tới kinh tế tri thức) chưa được coi là điều kiện tiên quyết của quá trình phát triển hiện đại. Chính quyền các cấp chưa ý thức đầy đủ sứ mệnh tạo lập môi trường giúp nâng cao mức độ sẵn sàng của các lực lượng đó.
Trong mọi lĩnh vực cũng như trong sự quan tâm cá nhân, tình trạng khá phổ biến là chưa xác định đúng tầm quan trọng của biến số quốc tế trong chương trình phát triển của nền kinh tế mở cửa. Việc phân tích, đánh giá động thái, xu hướng và mức độ tác động của các quá trình kinh tế quốc tế hiện đại chưa được quan tâm đầy đủ hoặc chỉ được triển khai với các mục tiêu mang nặng tính hình thức hơn là sự thiết thực. Trong hành động thực tiễn, đa số các doanh nghiệp chưa nhập cuộc được và cũng chưa sẵng sàng nhập cuộc vào thị trường thế giới. Do vậy mà hướng tiếp cận đến các thành tựu khoa học công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh và tạo năng lực cạnh tranh mới là ít ỏi và không rõ ràng.
Suốt một thời gian dài, chúng ta vẫn còn thiếu tính hệ thống và chưa dựa trên một ý tưởng nền tảng về phát triển doanh nghiệp trong một tầm nhìn dài hạn. Các hỗ trợ thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D) từ phía chính quyền cho đến doanh nghiệp cũng chưa mạnh, chưa được định hướng tập trung bằng một chương trình phát triển dài hạn với các trọng tâm phát triển được xác định rõ ràng cả về mục tiêu lẫn bước đi. Những điều đó dẫn tới kết quả là cho đến nay, tỷ lệ đóng góp của các lĩnh vực hiện đại và gắn với
tri thức trong GDP là rất hạn chế, đặc biệt là tỷ lệ của ngành giáo dục đào tạo và hoạt động khoa học công nghệ trong GDP lại có xu hướng không tăng tương ứng với tốc độ phát triển kinh tế chung, giáo dục đào tạo tương ứng từ 3,7% năm 2001, tăng lên 3,8% năm 2002, giảm xuống 3,7% năm 2003, 2004 đạt 3,9% GDP, năm 2007 đạt 3,04% GDP, năm 2008 là 2,06% GDP và 2009 là 3,5% GDP. Khoa học công nghệ không tăng là : 0.9% GDP năm 2001, 1,0% GDP năm 2002 và đến năm 2003, 2004 giữ nguyên mức 0,9% GDP,
năm 2007,2008 đều là 0,62% GDP và năm 2009 chỉ còn 0,6% GDP.
Đảng và Nhà nước ta ngày càng dành nhiều sự quan tâm cho hoạt động lao động sáng tạo. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII 14/11/2008) về KH&CN, hàng năm, Chính phủ đã dành 2% chi ngân sách nhà nước đầu tư cho phát triển KH&CN. Năm 2008, số kinh phí Nhà nước đầu tư cho KH&CN gấp khoảng 2,5 lần so với năm 2001. Đây là một cố gắng rất lớn. Nguồn chi ngân sách của Nhà nước 2% tương đương khoảng 0,5% GDP; các chi phí của khu vực sản xuất - kinh doanh cho KH&CN ước đạt dưới 0,3% GDP. Như vậy, tính đến 2008, tổng đầu tư toàn xã hội cho KH&CN đạt khoảng 0,8% GDP, suy ra, tổng đầu tư xã hội cho KH&CN/người/năm ở nước ta là 8,4 USD vào năm 2008. Nếu so với các nước, năm 2002 (trước đó 6 năm), con số này ở Hàn Quốc là 212 USD (gấp 25 lần), ở CHLB Đức là 511 USD (gấp 61 lần), ở Hoa Kỳ là 794 USD (gấp 95 lần).
Một là, về hệ thống đổi mới, Xét về các chỉ số liên quan đến hệ thống đổi mới quốc gia, so sánh với các nước thuộc khối G7, Hàn Quốc, Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan, Indonesia thì chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam còn rất thấp, và nhìn chung, đang tụt hậu khá xa so với nhiều nước khác. Bên cạnh thuận lợi là nhân lực có kỹ năng, trình độ của Việt Nam hiện nay tăng khá nhanh, có những tiềm năng không thể phủ nhận; song, đối chiếu với yêu cầu phát triển kinh tế tri thức thì cho đến nay vẫn còn nhiều vấn đề bất cập: năng lực sáng tạo công nghệ còn hạn chế, còn thấp so với nhiều nước trong khu vực; phân bố còn mất cân đối khá nghiêm trọng; thị trường lao động mới bắt đầu hình thành, hơn nữa đang bị chia cắt giữa các vùng, các khu vực kinh tế; chính sách đào tạo, sử dụng con người còn nhiều mặt bất hợp lý. Nhiều trí thức trẻ mới tốt nghiệp khó khăn về tìm việc làm hoặc phải chấp nhận làm việc trái ngành, nghề đào tạo. Còn thiếu chuyên gia đầu ngành, chưa xây dựng được các trường phái khoa học và những tập thể khoa học mạnh, hẫng hụt đội ngũ kế cận; thiếu tinh thần hợp tác trong nghiên cứu khoa học; ý thức trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận không nhỏ trí thức khoa học và công nghệ bị suy giảm.
Hai là, tuy số lượng nguồn nhân lực được đào tạo phát triển nhanh, nhưng xét về chất lượng đào tạo nguồn nhân lực còn chưa cao, vẫn còn khoảng cách so với các nước tiên tiến trong khu vực và mặt bằng của thế giới, chúng ta cần phải cố gắng nhiều hơn nữa, đầu tư tốt hơn nữa nhằm tăng nhanh cả chất và lượng nguồn nhân lực, đội ngũ khoa học kỹ thuật cho đất nước trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Ba là, đánh giá thực trạng phát triển kinh tế tri thức của Việt Nam qua yếu tố năng suất tổng hợp cho thấy phần giá trị tăng thêm do tri thức tạo ra còn thấp, việc tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào tăng trưởng vốn và lao động. Điều đó cho thấy trình độ công nghệ hiện đang sử dụng ở Việt Nam thấp tương đối so với các nước trong khu vực; hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của nước ta trong giai đoạn đầu mở cửa khá cao, nhưng đang có chiều hướng giảm thấp vào những năm gần đây; lao động của chúng ta còn bộc lộ khá nhiều nhược điểm. Lực lượng lao động tuy đông về số lượng nhưng chủ yếu là lao động phổ thông, ít qua đào tạo. Thấy được những yếu kém nêu trên thì việc vạch ra chiến lược phát triển đất nước, xây dựng nền kinh tế tri thức rút ngắn công nghiệp hóa hiện đại hóa, gia tăng hàm lượng đóng góp tri thức trong nền kinh tế (thể hiện chỉ số TFP) dựa trên cải thiện các yếu tố đóng góp vào TFP như: giáo dục và đào tạo, phát triển khoa học công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, kích thích phát triển sản xuất, môi trường kinh doanh và đổi mới, ICT trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết nếu không muốn tụt hậu.
Những hạn chế nêu trên xuất phát từ nguyên nhân chính, đó là trong giai đoạn dài lịch sử hiện đại, dân tộc Việt Nam đã phải trải qua hai cuộc chiến tranh ác liệt, cơ sở vật chất, kinh tế xã hội và giáo dục bị tàn phá và ảnh hưởng nghiêm trọng. Sau khi thống nhất đất nước chúng ta tiếp tục phải trả giá quá đắt với sự tụt hậu rất xa về nhiều mặt so với tốc độ và những thành tựu chung mà nhân loại đã có được. Nguyên nhân chính dẫn đến điều đó là do trong suốt nhiều thập kỷ trước năm 1986, chúng ta đã đố kỵ và chối bỏ kinh tế thị trường. Đến nay, mặc dù đường đổi mới của Đảng đã khẳng định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát cho cả thời kỳ quá độ ở nước ta; song, sức ì của thời kỳ kinh tế tập trung bao cấp vẫn là trở ngại lớn cho phát triển kinh tế tri thức và sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa kinh tế thị trường với kinh tế tri thức để hướng tới đạt được những mục tiêu phát triển hợp lý. Kinh tế tri thức là sự phát triển về chất của các hoạt động kinh tế của xã hội loài người. Nó là nấc thang cao nhất trong quá trình phát triển các hoạt động sản xuất, khi tất cả của cải vật chất được sáng tạo ra đều do tri thức con người thực hiện. Do đó, nguyên nhân chính nêu trên dẫn đến những nguyên nhân làm hạn chế phát triển kinh tế tri thức dưới đây :
Một là, nhận thức về vai trò của kinh tế tri thức trong phát triển kinh tế xã hội chưa đúng và chưa đủ dẫn đến chưa xây dựng được chiến lược tiếp cận, ứng dụng, triển khai, lộ trình để Việt Nam hướng đến nền kinh tế tri thức trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Hai là, năng lực kinh tế - xã hội của nước ta còn thấp so với khu vực và thế giới. Cơ cấu kinh tế chưa được định hình rõ nét và còn nhiều bất cập chưa hợp lý. Do vậy, chưa tạo được các hướng đầu tư tập trung hay tâm điểm đầu tư, tạo bước đột phá cho sự phát triển nhẩy vọt để tiếp cận và hướng tới nền kinh tế tri thức quốc tế bằng con đường ngắn nhất.
Ba là, tổ chức quản lý tri thức và phát triển tri thức vận chuyển vào đời sống kinh tế xã hội chưa hoàn thiện.
Bốn là, đầu tư dàn trải; chưa huy động được mọi nguồn đầu tư, đặc biệt chưa thu hút được các công ty đa quốc gia và các quỹ đầu tư mạo hiểm mà lĩnh vực phát triển kinh tế tri thức rất cần đến.
Năm là, thiếu chương trình, kế hoạch đào tạo toàn diện nguồn nhân lực cao cho tiếp thu, tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức gồm nhân lực cho ICT, công nghệ sinh học, tự động hóa, công nghệ nano,….
Sáu là, tiềm lực khoa học công nghệ chưa tương xứng với nhu cầu thực tiễn phát triển và ứng dụng. Chưa có chính sách phát triển khoa học công nghệ thích ứng với những đặc thù của Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa.
Bẩy là, môi trường thể chế, chính sách cho phát triển kinh tế tri thức chưa thuận lợi và chưa hoàn thiện.
Tám là, chưa tận dụng được mọi cơ hội hợp tác, liên kết quốc tế, chia sẻ thông tin, tri thức, kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực nội sinh.
Chín là, nền kinh tế trị trường Viêt Nam còn nhỏ bé, chưa lành mạnh, chưa tạo được sự phát triển bền vững và do đó, chưa thúc đẩy kinh tế tri thức phát triển, chưa đủ lực để vươn ra quốc tế, chưa thực sự sẵn sàng hội nhập.
Tổng kết chương 2
Nhìn chung, nhận thức từ thực tế cho thấy rằng, nền kinh tế của chúng ta xét trên giác độ kinh tế tri thức còn nhiều yếu kém tuy nhiên, chúng ta hiểu rằng phát triển không có nghĩa và cũng không thể chuyển ngay sang các ngành nghề sang phát triển ở trình độ công nghệ cao để có cơ cấu kinh tế như các nước phát triển đã đạt được, mà chúng ta đang nói về chiến lược sử dụng tri thức cho phát triển hay chiến lược phát triển dựa vào tri thức. Chiến lược này cơ bản đó là vận dụng kinh nghiệm các nước trong phát triển kinh tế tri