Hai là, các chính sách về phát triển nông nghiệp, nông thôn chưa hoàn chỉnh, đang trong quá trình phải liên tục điều chỉnh cho phù hợp với hội nhập quốc tế.
Ba là, hệ thống pháp luật, giám sát tiêu chuẩn chất lượng hàng nông sản chưa hoàn chỉnh, năng lực chuyên môn, quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu gây khó khăn trong việc cạnh tranh với hàng rào kỹ thuật ngày càng cao tại các thị trường quốc tế.
Bốn là, nhóm người phải gánh chịu tác động xấu về mặt kinh tế - xã hội của quá trình hội nhập thường tập trung ở khu vực nông thôn, trước tiên là những hộ nghèo, người nghèo.
1.3.2. Tác động từ chính sách của nhà nước.
1.3.2.1. Chính sách ruộng đất
Việt nam có quỹ ruộng đất nông nghiệp hạn hẹp, chiếm tỷ trọng thấp (21% diện tích đất tự nhiên của cả nước), dân số nông thôn lại đông đảo. Trong những năm gần đây, do tác động của quá trình đô thị hoá làm cho đất nông nghiệp đang giảm dần ở các vùng, trừ các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Do vậy , đất nông nghiệp bình quân trên số dân nông thôn đã ở mức thấp lại có xu hướng giảm ở tất cả các vùng, các tỉnh trên phạm vi cả nước. Trước đây, phần lớn đất đai được tập thể hoá thuộc quyền quản lý của các HTX sản xuất nông nghiệp hoặc các doanh nghiệp nông nghiệp nhà nước. Chính sách ruộng đất có nhiều nội dung không hợp lý và chế độ quản lý kinh tế theo lối cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã tách người nông dân ra khỏi ruộng đất dẫn đến kết quả và hiệu quả sử dụng ruộng đất rất thấp.
Chính sách ruộng đất luôn là trung tâm trong hệ thống chính sách phát triển KTNT. Vì vậy đổi mới và hoàn thiện chính sách ruộng đất đã trở thành cấp thiết. Một chính sách ruộng đất hợp lý trong bối cảnh trên có một vai trò hết sức quan trọng, một mặt làm cho việc sử dụng đất đai đầy đủ và hợp lý, mặt khác là cơ sở quan trọng cho việc đổi mới và hoàn thiện các chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn khác, cụ thể:
- Chính sách ruộng đất hợp lý sẽ tạo động lực để sử dụng đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả ruộng đất trong điều kiện ruộng đất bình quân đầu người thấp, chất lượng có xu hướng giảm sút.
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển kinh tế nông thôn ở Nam Định – Thực trạng và giải pháp - 2
- Góp Phần Thực Hiện Đô Thị Hoá Nông Thôn, Phân Công Lại Lao Động Trong Nông Thôn, Giảm Sức Ép Về Việc Làm, Giảm Sự Chênh Lệch Về Kinh Tế Và Đời
- Khai Thác Và Sử Dụng Có Hiệu Quả Nguồn Nhân Lực Trong Nông Nghiệp, Nông Thôn.
- Những Đặc Điểm Tự Nhiên, Kinh Tế, Xã Hội Có Ảnh Hưởng Đến Quá Trình Phát Triển Kinh Tế Nông Thôn Ở Nam Định.
- Giá Trị Kim Ngạch Xuất Khẩu Của Khu Vực Kinh Tế Nông Thôn
- Cơ Cấu Giá Trị Sản Xuất Nông – Lâm – Thuỷ Sản
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
- Thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ câu kinh tế nông thôn vì hiện nay nông thôn còn mang tính thuần nông, chăn nuôi chưa phát triển cân đối với trồng trọt, nhiều tiềm năng chưa được khai thác; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông thôn phát triển chậm. Để khắc phục được sự yếu kém đó, cần giải quyết nhiều vấn đề, trong đó sự đổi mới và hoàn thiện Luật đất đai và các chính sách về ruộng đất là một trong những vấn đề cơ bản và cấp bách
- Chính sách ruộng đất có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển nông nghiệp, nông thôn nước ta sang sản xuất hàng hoá. Từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, chính sách ruộng đất nước ta có nhiều thay đổi, trong đó đã có sự điều chỉnh chính sách để người nông dân quay về với ruộng đất, yên tâm đầu tư khai thác với bảo vệ và nâng cao chất lượng ruộng đất. Tuy nhiên, hiện nay ruộng đất vẫn còn trong tình trạng manh mún, một số vùng ruộng đất chưa được khai thác đầy đủ và hợp lý. Nên để chuyển nông nghiệp, nông thôn sang sản xuất hàng hoá cần phải đổi mới và hoàn thiện chính sách theo hướng đẩy mạnh tập trung ruộng đất.
- Chính sách ruộng đất hợp lý là một trong các biện pháp chủ yếu và quan trọng để giải quyết các vấn đề tranh chấp ruộng đất đang xảy ra tương đối phổ biến ở nông thôn nước ta.
Đối với nước ta hiện nay, chính sách ruộng đất cần phải đạt được các mục tiêu sau:
- Tiếp tục khuyến khích sử dụng đầy đủ, tiết kiệm và hợp lý ruộng đất. Là cơ sở tự nhiên để tạo ra các nông sản phục vụ nhu cầu tối cần thiết của con người, nhưng ruộng đất lại có hạn về mặt số lượng. Trong khi yêu cầu của xã hội, của nền kinh tế thị trường là phải sản xuất ra nhiều nông sản hàng hoá. Vì
vậy, sử dụng đất đầy đủ, tiết kiệm và có hiệu quả là mục tiêu quan trọng nhất của sử dụng ruộng đất đồng thời cũng là mục tiêu của chính sách ruộng đất.
- Phải gắn việc sử dụng với bảo vệ, tái tạo và khôi phục chất lượng của ruộng đất.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng ruộng đất thông qua việc tiếp tục khuyến khích chuyển đổi cơ cấu cây trồng và quá trình tập trung ruộng đất để phát triển nông nghiệp hàng hoá theo hướng CNH, HĐH.
1.3.2.2. Chính sách về tài chính
* Chính sách tín dụng
Tín dụng là hình thức đầu tư vốn quan trọng trong các hình thức đầu tư trong nông nghiệp, nông thôn. Vì vậy, chính sách đầu tư vốn tín dụng có vai trò hết sức quan trọng đối với việc thúc đẩy sự phát triển KTNT. Để chính sách tín dụng cho KTNT đáp ứng tốt nhu cầu vốn của nông nghiệp, nông thôn cần tập trung xử lý các vấn đề sau:
- Xác định các đối tượng và hình thức cho vay.
Nông nghiệp, nông thôn là một lĩnh vực hết sức rộng lớn và phức tạp, bao gồm nhiều đối tượng, nhiều lĩnh vực hoạt động cần vốn. Vì vậy, căn cứ vào nguồn vốn tín dụng, đặc điểm của hoạt động kinh doanh, các chủ thể kinh doanh để xác định đúng đối tượng được vay và hình thức cho vay phù hợp. Trong điều kiện nguồn vốn còn hạn hẹp, yêu cầu đầu tư lớn nên việc xác định đối tượng và hình thức cho vay cần dựa trên những căn cứ sau: Mục đích của việc cho vay; tính an toàn trong bảo tồn và phát triển nguồn vốn vay; hiệu quả của việc sử dụng vốn vay
Trong những năm tới, chính sách tín dụng nông thôn cần tiếp tục tập trung vào giải quyết các vấn đề dưới đây: vừa tập trung vào các vùng trọng điểm, vừa chú ý đến các vùng còn gặp nhiều khó khăn để tạo nên sự phát triển đồng đều giữa các vùng trên phạm vi cả nước; tập trung vào các ngành chủ yếu, khuyến khích các ngành, các loại cây trồng, gia súc mới, góp phần chuyển dịch mạnh hơn cơ cấu kinh tế nông thôn; chú ý đầu tư vào lĩnh vực
kết cấu hạ tầng nông thôn, dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống dân cư nông thôn. Đồng thời tạo điều kiện để áp dụng tiến bộ KHCN vào sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; đầu tư vào việc nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ KHCN và chuyển giao công nghệ vào sản xuất nông nghiệp
- Vấn đề lãi suất cho vay:
Về nguyên tắc, nông nghiệp, nông thôn có những đặc điểm đặc thù so với các ngành, các lĩnh vực khác vì vậy đối với khu vực nông thôn cần áp dụng mức lãi suất thấp và thực tế nguyên tắc này được thực hiện ở hầu hết các ngành, lĩnh vực của KTNT. Tuy nhiên với tư cách là ngành kinh tế, ngân hàng một mặt phải đáp ứng được yêu cầu của sản xuất, mặt khác phải đảm bảo tự trang trải và kinh doanh có lãi. Vì vậy xác định lãi suất tín dụng nông thôn là rất quan trọng đòi hỏi chính sách can thiệp lãi suất của nhà nước phải hết sức linh hoạt.
* Chính sách đầu tư vốn cho phát triển KTNT
Vốn và đầu tư vốn có vai trò hết sức quan trọng đối với nông nghiệp, nông thôn. Điều đó bắt nguồn từ vai trò của KTNT trong sự phát triển kinh tế
- xã hội đất nước.
- Chính sách vốn hợp lý sẽ cho phép huy động nguồn vốn đủ về số lượng, đáp ứng nhu cầu thời hạn và phù hợp với đặc điểm sản xuất nông nghiệp, phát triển nông thôn. Đây là điều kiện hết sức quan trọng cho KTNT phát triển.
- Chính sách huy động vốn cho nông thôn một mặt bắt nguồn từ nguồn vốn ngân sách, mặt khác quan trọng hơn là phải tạo môi trường kinh doanh thuận lợi để thu hút vốn đầu tư của các ngành, các lĩnh vực vào KTNT.
- Chính sách vốn đầu tư hợp lý sẽ góp phần chuyển tải vốn đến từng đơn vị sản xuất kinh doanh của KTNT, tạo điều kiện cho KTNT phát triển cơ sở hạ tầng, khai thác tiềm năng và lợi thế, từng bước nâng cao đời sống và xây dựng nông thôn mới.
- Chính sách đầu tư hợp lý cho phép đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tạo sự kết hợp giữa các nguồn vốn nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư cho KTNT cũng như tạo điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở khu vực này.
- Chính sách đầu tư vốn hợp lý cho phép giải quyết các vấn đề kinh tế trong mối quan hệ hữu cơ với các vấn đề xã hội, thực hiện tốt các chính sách khác như xoá đói giảm nghèo, chính sách ưu đãi người có công…
Để chính sách vốn và đầu tư vốn phát huy được vai trò, sự ảnh hưởng của mình đến phát triển KTNT nó cần đáp ứng được một số yêu cầu sau:
- Phải tạo mọi điều kiện để huy động triệt để các nguồn vốn trong nước (vốn ngân sách, vốn tín dụng, vốn trong dân…) và nguồn vốn nước ngoài để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của các ngành, lĩnh vực trong KTNT bởi vì đối với nước ta, quá trình chuyển nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá, chuyển dịch cơ cấu KTNT theo hướng CNH, HĐH đã và đang yêu cầu phải có một lượng vốn rất lớn.
- Chính sách đầu tư vốn cần tập trung chủ yếu vào những lĩnh vực, những ngành, những khâu có khả năng huy động được nhiều sức lao động, làm ra được nhiều sản phẩm và sản phẩm hàng hoá đạt hiệu quả kinh tế cao. Từ đó tạo điều kiện cho nguồn vốn trong nông nghiệp, nông thôn ngày càng tăng trưởng.
- Cần có sự thay đổi trong chính sách đầu tư vốn theo hướng tăng tỷ trọng vốn đầu tư qua ngân sách trong tổng nguồn vốn đầu tư qua ngân sách cho các ngành, thực hiện các hình thức đầu tư đa dạng, phong phú, nâng cao hiệu quả của sử dụng vốn đầu tư.
* Chính sách thuế
Ruộng đất là tài sản quý giá, là tư liệu sản xuất chủ yếu đặc biệt trong nông nghiệp, nông thôn. Nó thuộc sở hữu toàn dân và Nhà nước thay mặt toàn dân thực hiền quyền sở hữu đó. Vì vậy cả Nhà nước và những người sử dụng đất đều phải có nghĩa vụ đối với việc sử dụng ruộng đất thông qua việc đóng thuế sử dụng đất.
Chính sách thuế cho phép việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất, ngoài ra nó còn có ý nghĩa quan trọng trong việc điều tiết lợi ích giữa các thành phần kinh tế, thực hiện công bằng xã hội ở nông thôn. Trong chính sách thuế sử dụng ruộng đất, vấn đề đặt ra là phải xác định mức thuế và hình thức thu thuế sao cho hợp lý. Về mặt nguyên tắc, bất cứ ai sử dụng đất đều phải đóng thuế. Bởi vì, thuế sử dụng ruộng đất là loại thuế đặt ra nhằm mục đích thu một phần lợi nhuận của người sử dụng ruộng đất. Đây là vấn đề phức tạp nhưng rõ ràng, mức thuế phải được phân biệt theo chất lượng ruộng đất và mục đích sử dụng.
Cần tính toán mức thuế để người sử dụng ruộng đất trong điều kiện bình thường còn có phần lãi để không chỉ tái sản xuất giản đơn mà còn thực hiện tái sản xuất mở rộng, thực hiện động viên hợp lý với những người sử dụng ruộng đất có hiệu quả, ưu tiên những vùng sản xuất khó khăn, trình độ thâm canh thấp. Cùng với đó là việc thu thuế phải có được các hình thức thu thuế và thời hạn thu thuế thật linh hoạt .
Chính sách thuế cần phải đặt trong mối quan hệ và phù hợp với các chính sách xã hội ở nông thôn.
1.3.2.3. Chính sách về khoa học và công nghệ
Nền nông nghiệp nước ta có lịch sử phát triển từ rất lâu đời. Tuy nhiên vì nhiều lý do về lịch sử, kinh tế – xã hội, đến nay về cơ bản sản xuất nông nghiệp và các ngành nghề ở nông thôn vẫn chủ yếu dựa vào kỹ thuật thủ công, công nghệ lạc hậu. Do đó, thúc đẩy nghiên cứu ứng dụng và triến khai những thành tựu mới của KHCN vào phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn có ý nghĩa quan trọng vì đây chính là động lực của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta. Muốn vậy nhà nước phải có chính sách KHCN đúng đắn, phù hợp để thúc đẩy KTNT nước ta phát triển nhanh chóng.
Chính sách KHCN đối với nông nghiệp và phát triển nông thôn thực chất là chính sách về vai trò của Nhà nước trong việc đề xuất, tạo ra kỹ thuật,
công nghệ mới, lựa chọn và phổ biến những tiến bộ đó cho các nông hộ, các trang trại và cư dân nông thôn.
Yêu cầu của chính sách KHCN ở nước ta đối với phát triển KTNT là:
- Phải xuất phát từ đặc điểm của KTNT, khả năng kinh tế và nhận thức, phong tục, tập quán, thói quen canh tác của nông dân…
- Phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường và khả năng cạnh tranh của sản phẩm;
- Phải được triển khai một cách toàn diện, triệt để trên tất cả các lĩnh vực của KTNT
Để có thể thực hiện tốt các yêu cầu trên, chính sách KHCN đối với phát triển KTNT cần một số biện pháp sau:
- Tăng cường năng lực KHCN cho nông nghiệp, nông thôn;
- Lựa chọn hình thức chuyển giao tiến bộ KHCN thích hợp cho các hộ gia đình nông dân và các trang trại;
- Làm tốt công tác tổ chức và triển khai hoạt động có hiệu quả hệ thống khuyến nông theo tinh thần Nghị định 13/CP (ngày 2/3/1993 của Chính phủ).
- Thường xuyên có những nghiên cứu tổng kết các điển hình tiên tiến và tổ chức nhân điển hình tiên tiến về tiến bộ KHCN trong sản xuất kinh doanh.
1.4. Kinh nghiệm về phát triển kinh tế nông thôn ở một số nước khu vực châu Á.
1.4.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Nhật Bản tiến hành xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường từ một nền kinh tế dựa trên cơ sở nền nông nghiệp cổ truyền, tự cấp, tự túc, sản xuất manh mún, với những hộ nông dân quy mô nhỏ và đã nhanh chóng trở thành cường quốc kinh tế đứng thứ 2 thế giới, với một nền nông nghiệp và công nghiệp hiện đại, kinh tế nông thôn và kinh tế thành thị đều phát triển.
Nhật Bản đã kiên trì và liên tục thực hiện các chủ trương, biện pháp có liên quan nhằm không ngừng phát triển KTNT một cách mạnh mẽ, toàn diện.
* Về phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghệp
Mặc dù Nhật Bản đã không ngừng tiến hành công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn thực hiện phát triển KTNT trong nền kinh tế thị trường, nhưng một thực tế là những ngành nghề TTCN ở nông thôn không mất đi, mà nó vẫn được duy trì và phát triển trong các hộ nông dân, các làng nghề truyền thống. Ở Nhật Bản, có rất nhiều nghề TTCN như chế biến lương thực, thực phẩm từ nông sản, thuỷ sản; nghề đan lát bằng tre, nứa; nghề dệt chiếu, bao tải; nghề thủ công mỹ nghệ; nghề dệt lụa; nghề làm nông cụ…Điều đáng chú ý là công nghệ chế tác nông cụ đã dần dần được hiện đại hoá với các máy móc có trình độ kỹ thuật tiên tiến tại các vùng nông thôn. Họ không chỉ duy trì và phát triển các ngành nghề cổ truyền mà còn mở ra các ngành nghề mới, trước hết là hoạt động dịch vụ kinh tế, kỹ thuật ở nông thôn, nhằm tận dụng hết các loại lao động dư thừa ở nông thôn.
* Về xây dựng các xí nghiệp vừa và nhỏ, các cơ sở công nghiệp gia đình ở địa phương
Ngay khi bước vào thời kỳ thực hiện phát triển KTNT theo kinh tế thị trường, Nhật Bản đã xác định di đôi với việc xây dựng các xí nghiệp công nghiệp lớn ở đô thị, Nhật Bản đã rất chú trọng việc hình thành các xí nghịêp vừa và nhỏ, đặc biệt là mạng lưới công nghiệp gia đình phân tán ở nông thôn, làm vệ tinh cho các xí nghiệp lớn ở đô thị. Các cơ sở công nghiệp gia đình của nông dân thường ký hợp đồng trực tiếp với các xí nghiệp lớn ở các trung tâm kinh tế, ở các đô thị, làm gia công một số chi tiết máy móc với kỹ thuật giản đơn. Trong các cơ sở này, lao động là những người nông dân, họ chỉ qua đào tạo, bồi dưỡng trong thời gian ngắn để có thể đảm nhiệm một công việc nhất định. Kinh nghiệm thực tế ở Nhật Bản cho thấy các cơ sở công nghiệp gia đình ở nông thôn làm gia công cho các nhà máy lớn, có nhiều ưu điểm, khắc phục được những khó khăn về vốn, lao động…trong quá trình phát triển KTNT trong điều kiện kinh tế thị trường.
* Về phát triển ngành, nghề dịch vụ kỹ thuật, kinh tế ở nông thôn