62.090 tấn, vượt 1,8% kế hoạch. Sự chuyển đổi cơ cấu mùa vụ (chuyển từ sản xuất 3 vụ lúa sang 2 vụ) đã tạo điều kiện để thâm canh, tăng năng suất cây trồng cao hơn [21]. Đặc biệt, việc mở rộng diện tích lúa lai, lúa thuần có năng suất cao, kết hợp với các biện pháp thâm canh tổng hợp đã góp phần đáng kể làm tăng năng suất lúa từng vụ với tốc độ cao và ổn định. Đến nay, 100% diện tích lúa nước trên địa bàn huyện đã được sản xuất bằng giống lúa thuần và giống lúa lai.
Ngoài các loại cây công nghiệp, cây ăn quả truyền thống như: tiêu,
điều, chuối, dứa… huyện đã đưa cây cao su vào trồng tại xã Bình Phú và đang quy hoạch hình thành vùng cao su với diện tích 85 ha.
* Lâm nghiệp
Với lợi thế gò, đồi của vùng trung du, miền núi, những năm qua bên cạnh việc đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, huyện đã chú trọng đến công tác trồng và bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh, phục hồi rừng, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc. Năm 2009 đã trồng thêm được gần 130 ha rừng; trồng phân tán 1 triệu cây các loại [21]. Lấy hộ gia đình làm đơn vị kinh tế tự chủ, giao đất, giao rừng cho hộ gia đình phát triển nghề rừng, xây dựng
kinh tế vườn đồi với phương châm nông, lâm kết hợp. Đồng thời, xây
dựng mối quan hệ
chặt chẽ
giữa các hộ
với cộng đồng, với các thành
phần kinh tế nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tại địa phương, gắn phát triển kinh tế với mở rộng phúc lợi xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và xây dựng nông thôn mới.
* Thuỷ sản
Huyện Thăng Bình có 4 xã biển, ngư dân ở đây có truyền thống đánh bắt hải sản, nhưng vì bãi ngang, tàu thuyền có công suất nhỏ chủ yếu khai
thác gần bờ, nên mặc dù trữ
lượng các loại hải sản ở
vùng này khá đa
dạng, phong phú, trong đó có một vài số loài tôm, cá, mực có chất lượng cao nhưng sản lượng đánh bắt không lớn. Năm 2009, sản lượng khai thác
chỉ đạt 6.560 tấn, đạt 102% kế hoạch và tăng 20,4% so với năm 2008 [21]. Ngoài ra, ngư dân vùng biển Thăng Bình còn có nghề chế biến nước mắm, nhưng chủ yếu làm thủ công, không có thương hiệu nên chỉ tiêu thụ ở thị trường đị phương.
* Thương mại, dịch vụ
So với các huyện đồng bằng của tỉnh Quảng Nam, ngành thương mại, dịch vụ huyện Thăng Bình phát triển chậm hơn (trừ một số dịch vụ như ngân hàng, bảo hiểm, vận tải, bưu điện… là phát triển tương đối nhanh). Tuy nhiên, ngành này đã góp phần quan trọng vào quá trình phát triển nền
kinh tế
huyện. Giá trị
ngành thương mại, dịch vụ
năm 2009 đạt 342 tỷ
đồng, vượt 6,8% kế
hoạch năm 2009; chiếm 32% trong cơ
cấu kinh tế
huyện [21]. Hệ thống các đại lý thu mua nông sản được mở rộng đến tận vùng nông thôn, tạo điều kiện cho việc tiêu thụ nhanh các sản phẩm nông nghiệp. Dịch vụ bưu chính viễn thông được mở rộng, số hộ sử dụng điện
thoại gần như phổ biến ở các hộ dân, mạng Internet được phủ khắp các
xã, thị trấn. Mạng lưới điện đên tận các thôn, xã, đến nay đã có 99,8% số hộ sử dụng điện sinh hoạt.
* Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có bước phát triển đáng kể. Giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp năm 2009 đạt 240 tỷ đồng, tăng 28,3% so với năm 2008, đạt 101,3 kế hoạch đề ra và chiếm 23% cơ cấu ngành kinh tế [21]. Một số ngành công nghiệp tiếp tục được đầu tư và phát triển như: công nghiệp khoáng sản, may mặc, chế biến nông, lâm, thủy sản… tạo ra nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động. Một số làng nghề truyền thống được khôi phục, đồng thời phát triển thêm một số ngành nghề mới, tạo công ăn việc làm cho người lao động và tạo ra
sản phẩm có thương hiệu trên thị hương….
trường như
mây tre, đá, gỗ, mỹ
nghệ,
+ Về xã hội
Hiện tại, Thăng Bình vẫn còn là huyện thuần nông, gần 85% dân số sống ở nông thôn. Mặc dầu trong quá trình đổi mới, nông nghiệp và nông thôn Thăng Bình có nhiều khởi sắc, bộ mặc nông thôn có nhiều đổi mới và có nhiều chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Nhưng là một huyện thuần nông nên thu nhập bình quân đầu người
thuộc loại thấp, dưới 1.000 USD/người/năm. Tỷ
lệ hộ
nghèo còn ở
mức
cao, trên 20%, một số nơi như các xã ở vùng cát ven biển, các xã trung du, miền núi tỷ lệ hộ nghèo trên 30%. Do đó, việc di chuyển lao động từ nông thôn ra thành phố để tìm kiếm việc làm, tăng thu nhập đang có xu hướng ngày càng tăng, làm cho không chỉ số lượng mà chất lượng lao động trong nông nghiệp, nông thôn cũng ngày càng giảm, nhất là lao động trẻ, lao động được đào tạo ít ở lại lao động, làm việc ở các vùng quê. Bên cạnh đó, tình
trạng phân hoá giàu nghèo cũng ngày càng tăng. Những hộ kinh doanh
thương mại, dịch vụ, phát triển ngành nghề có thu nhập cao, trong khi một bộ phận không nhỏ những hộ nông nghiệp có thu nhập thấp, thậm chí có một số hộ thu nhập rất thấp. Số có thu nhập thấp và rất thấp thường rơi vào những hộ thiêú vốn, thiếu lao động trong ngành trồng trọt, đánh bắt hải sản…
Đánh giá một cách khách quan, đời sống người dân nông thôn huyện Thăng Bình nói riêng, tỉnh Quảng Nam nói chung được cải thiện đáng kể so với trước đây. Đặc biệt những gia đình chính sách, gia đình có công cách mạng được chính quyền, các ban ngành, địa phương quan tâm chu đáo, giúp họ có điều kiện vươn lên trong cuộc sống. Đời sống vật chất, tinh
thần, vấn đề
giáo dục, y tế, văn hoá được quan tâm phát triển từ
huyện
đến cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc học hành,
khám chữa bệnh, sinh hoạt cộng đồng. Nhưng những gì đạt được ở vùng quê Thăng Bình vẫn còn ở mức khiêm tốn, chưa ngang tầm với tiềm năng,
lợi thế của một huyện có nhiều thuận lợi trong phát triển nông nghiệp,
nông thôn. Điều này đặt ra yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của huyện trong giai đoạn mới là phải gắn phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, giảm nghèo nhanh và bền vững, rút ngắn khoản cánh giàu nghèo ở nông thôn.
2.2. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI KINH TẾ HỘ TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HUYỆN THĂNG BÌNH, TỈNH QUẢNG NAM
2.2.1. Tình hình huy động vốn
Huy động vốn là tiền đề quan trọng góp phần quyết định qui mô của
hoạt động tín dụng của NHTM. Với phương châm “đi vay để cho vay”
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thăng Bình đã có nhiều giải pháp để tăng cường huy động vốn. Trong đó, thực hiện tốt Đề án huy động vốn trong các thành phần kinh tế giai đoạn năm 20052010 của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam
nhằm đáp
ứng nhu cầu cho vay đối với kinh tế
hộ ở
khu vực nông
nghiệp, nông thôn. Với các hình thức huy động như: Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn; Tiền gửi tiết kiệm bậc thang hưởng lãi bậc thang theo thời hạn gửi và hưởng lãi bậc thang theo lũy tiến của số dư tiền gửi; Tiền gửi tiết kiệm gửi góp như tiết kiệm hưu trí, tiết kiệm an
sinh, tiết kiệm học đường; Tiền gửi tiết kiệm dự thưởng; Phát hành
giấy tờ có giá ngắn hạn và dài hạn và các hình thức huy động khác do
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam ban hành phù hợp với điều kiện huy động vốn của từng đối tượng và địa bàn cụ thể.
Tuy nhiên, hiện trên địa bàn huyện đã có 5 ngân hàng hoạt động: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thăng Bình, Ngân
hàng cổ
phần Việt Á, Ngân hàng Cổ
phần Đông Á, Ngân hàng Cổ
phần
Công Thương và hệ thống Ngân hàng chính sách xã hội nên mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt. Song, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thăng Bình đã biết phát huy lợi thế so sánh về mạng lưới hoạt động, về quan hệ khách hàng là kinh tế hộ (bình quân 5 xã có 1 phòng Giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoạt động). Do đó, hoạt động tín dụng được thực hiện trực tiếp thông qua việc mua và bán vốn tại chỗ, đặc biệt không có “xã trắng” về ngân hàng. Nhờ đó Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thăng Bình thường xuyên thu hút được khách hàng trên địa bàn nông thôn.
Với chiến lược và phương thức huy động vốn phù hợp, như thường
xuyên quảng bá tiếp thị thương hiệu AGRIBANK trên các phương tiện
thông tin đại chúng đến với khách hàng ở từng thôn, xóm; đổi mới phong cách giao dịch, kỹ năng giao tiếp khách hàng; áp dụng lãi xuất phù hợp với diễn biến của thị trường; có chính sách khuyến mãi phù hợp với đặc điểm tâm lý, thị hiếu khách hàng... Do vậy mà việc huy động vốn của ngân hàng ngày càng thu hút được khách hàng, nhờ đó nguồn vốn liên tục tăng trưởng vững chắc qua các năm, cụ thể qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.2: Tình hình huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thăng Bình từ năm 20052009
Đơn vị tính: Triệu đồng
2005 | 2006 | 2007 | 2008 | 2009 | 2009/2005 (%) | |
Tổng nguồn vốn | 142.177 | 173.050 | 201.537 | 220.208 | 249.017 | 175,1 |
* Phân theo kỳ hạn nợ | 142.177 | 173.050 | 201.537 | 220.208 | 249.017 | 175,1 |
Tiền gửi không kỳ hạn | 42.969 | 37.709 | 30.053 | 26.008 | 44.850 | 104,3 |
Tiền gửi có kỳ hạn | 99.208 | 135.341 | 171.484 | 194.200 | 204.167 | 205,8 |
Có thể bạn quan tâm!
- Thúc Đẩy Sản Xuất Phát Triển, Chuyển Dịch Cơ Cấu Kinh Tế,
- Thực Hiện Các Chủ Trương, Chính Sách Của Đảng Và Nhà Nước Đối Với Kinh Tế Hộ
- Những Thuận Lợi, Khó Khăn Ảnh Hưởng Đến Hoạt Động Của Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Huyện Thăng Bình, Tỉnh Quảng Nam
- Thực Trạng Tín Dụng Đối Với Kinh Tế Hộ Tại Chi Nhánh
- Dư Nợ Cho Vay Hộ Sản Xuất Phân Theo Kỳ Hạn Tại Chi Nhánh Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Huyện Thăng Bình, Tỉnh Quảng Nam Từ Năm
- Kết Quả Sản Xuất Của Huyện Thăng Bình Từ 20052009
Xem toàn bộ 149 trang tài liệu này.
20.834 | 29.775 | 39.441 | 44.916 | 77.902 | 373,9 | |
+ Tiền gửi có kỳ hạn >12 tháng | 78.374 | 105.566 | 132.043 | 149.284 | 126.265 | 161,1 |
Tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn (%) | 69,7 | 78,2 | 85,1 | 88,2 | 82,0 | 117,5 |
* Phân theo tính chất tiền gửi | 142.177 | 173.050 | 201.537 | 220.208 | 249.017 | 175,1 |
Tiền gửi Kho bạc | 42.969 | 37.709 | 30.052 | 14.995 | 21.039 | 48,9 |
Tiền gửi tổ chức kinh tế | 6.037 | 8.003 | 7.866 | 10.815 | 24.774 | 410.3 |
Tiền gửi dân cư | 93.171 | 127.338 | 163.619 | 194.398 | 203.204 | 218,1 |
Tỷ trọng Tiền gửi dân cư (%) | 65,5 | 73,5 | 81,1 | 88,2 | 81,6 |
Nguồn: Báo cáo tổng kết Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thăng Bình.
Với kết quả huy động vốn 5 năm từ năm 20052009 của chi nhánh
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thăng Bình cho thấy, nguồn vốn huy động ngày càng tăng lên. Đến 31/12/2009 nguồn vốn huy động đạt 249.017 triệu đồng, tăng 75,1% so với năm 2005, tốc độ tăng trung bình từ năm 20052009 là 15,1%. Thể hiện ở sơ đồ dưới đây.
Hình 2.2: Sơ đồ tăng trưởng huy động vốn từ năm 20052009
Tổng nguồn vốn huy động
Triệu đồng
300,000
249,017
250,000
200,000
150,000
100,000
50,000
0
201,537
220,208
173,050
142,177
Năm
2005 2006 2007 2008 2009
Đánh giá về cơ cấu nguồn vốn theo tính chất tiền gửi ta thấy, mặc dù nguồn vốn huy động tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thăng Bình năm 2005 có số dư tương đối lớn, song do cơ cấu nguồn vốn tạm thời chờ thanh toán (tiền gởi Kho bạc) chiếm tỷ trọng lớn, dẫn đến việc điều hành kế hoạch kinh doanh phải dự trữ thanh khoản cao, trong khi loại tiền này không thể tăng mãi với tốc độ cao nên Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thăng Bình đã tập trung chỉ đạo thay đổi cơ cấu nguồn vốn huy động theo hướng có tính chất ổn định chiếm tỷ trọng chủ yếu để cân đối cho vay, còn nguồn vốn tạm thời chờ thanh toán có số dư cao được xác định là hỗ trợ về tài chính. Từ tổ chức thực hiện có hiệu
quả đề án huy động vốn trong dân cư dựa vào cộng đồng, đặc biệt hằng
năm ngân hàng tổ
chức các đợt huy động vốn tiết kiệm dự
thưởng bằng
vàng “3 chữ A” và tiết kiệm dự thưởng vào dịp kỷ
niệm các ngày lễ
lớn
trong năm đã khuyến khích người dân gửi tiền tiết kiệm tăng nhanh. Kết
quả
huy động vốn trong dân cư
có tốc độ
tăng trưởng khá cao, từ
93.171
triệu đồng năm 2005 lên 203.204 triệu đồng năm 2009, tăng 218,1%. Nó thể hiện tính ổn định và phát triển của ngân hàng, đồng thời nói lên khả năng và tiềm lực của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thăng Bình trong việc huy động và đầu tư vốn phát triển kinh tế.
Nguồn tiền gửi của các tổ
chức kinh tế
(TCKT) có xu hướng tăng
nhanh, từ 6.037 triệu đồng năm 2005, đến 31/12/2009 là 24.774 triệu đồng, chiếm 9,9% tổng nguồn vốn của ngân hàng. Đây là một trong nhũng nguồn tiền gửi có chi phí huy động thấp nhất và có tính ổn định tương đối, bởi ngân hàng có thể dự báo được phần nào thời điểm thanh toán hoặc rút tiền gửi của các TCKT. Một đặc thù nữa cũng không kém phần quan trọng là khi gửi tiền, các TCKT quan tâm nhiều hơn đến tính đơn giản trong thủ tục và thuận lợi, nhanh gọn trong các khâu gửi, rút tiền hơn là lãi suất mà họ được hưởng. Chính vì vậy, trong những năm qua, Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn huyện Thăng Bình đã tăng cường tiếp thị trên cơ sở
áp dụng tốt các dịch vụ
thanh toán, ngân quỹ
… do vậy đã thu hút được
khối lượng lớn khách hàng là các TCKT trên địa bàn đến gửi tiền.
Xét về cơ cấu nguồn vốn theo kỳ hạn, cho thấy giai đoạn 20052009 tiền gửi có kỳ hạn liên tục tăng, đến cuối năm 2009 tăng 205% so với năm 2005, tốc độ tăng bình quân trong giai đoạn này là 20,4% và hiện nay đang
chiếm tỷ trọng cao nhất gần 82% tổng nguồn vốn huy động. Đây được
đánh giá là thành công của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thăng Bình trong việc tạo điều kiện để mở rộng tín dung.
Tuy nhiên công tác huy động nguồn vốn của các chi nhánh vẫn còn có những vấn đề cần khắc phục:
Loại tiền gửi không kỳ hạn rất cần thiết cho việc hạ lãi suất đầu
vào, tạo thuận lợi cho chi nhánh trong cạnh tranh về lãi suất đầu ra, tăng khả năng tài chính vì giảm được chi phí hoạt động. Nhưng trong tương lai loại tiền gửi này tại chi nhánh, nguồn tiền gửi Kho bạc nhà nước chỉ chiếm 8,4%, vì thế tính ổn định không cao, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán, nhất là trong điều kiện được sử dụng một phần nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung hạn.
Loại tiền gửi có kỳ hạn chiếm tỷ lệ tương đối lớn trong tổng nguồn vốn hoạt động, mặc dù tiền gửi trên một năm nhưng trong đó một số lớn kỳ hạn chỉ là 13 tháng, vì thế về thực chất nguồn vốn huy động trung, dài hạn vẫn còn hạn chế.
Các loại sản phẩm tiền gửi còn đơn điệu, chưa có được những loại tiền gửi dài hạn, với lãi suất và các biện pháp hỗ trợ đủ sức hấp dẫn người gửi tiền.
Thực trạng trên là do các nguyên nhân: Vẫn còn nặng tư tưởng trông chờ vào nguồn vốn tiền gửi có lãi suất thấp, dễ quan hệ trong huy động