Tiềm Năng Về Các Nguồn Lực Cho Phát Triển Kinh Tế Du Lịch


phần vào chuỗi các sản phẩm, dịch vụ du lịch nhằm cung ứng cho khách du lịch, đem lại lợi ích thiết thực cho nước làm du lịch và bản thân DNDL. Ngày nay, cùng với xu hướng phát triển ngày càng đa dạng những nhu cầu của khách du lịch, sự tiến bộ của KH - CN và sự gia tăng mạnh của các DNDL dẫn đến sự cạnh tranh ngày càng tăng trên thị trường du lịch thì các hoạt động kinh doanh bổ trợ này ngày càng có xu hướng phát triển mạnh.

1.2..3. Các tiêu chí đánh giá phát triển KTDL

Căn cứ vào mục tiêu hoạt động của các tổ chức kinh doanh du lịch trên thế giới nói chung và Luật Du lịch của nước ta nói riêng, có thể xác định các tiêu chí để đánh giá KTDL bao gồm:

Tiêu chí về khách du lịch và tốc độ tăng trưởng lượt khách: Số lượng khách du lịch chính là tổng lượt khách mua và sử dụng sản phẩm lữ hành doanh nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định thường là năm. Số lượt khách du lịch được xác định trên cơ sở số lượt khách du lịch quốc tế và số lượt khách du lịch nội địa. Như vậy, trong một khoảng thời gian nhất định đó, một khách du lịch có thể mua và sản phẩm của doanh nghiệp một hoặc nhiều lần.

Tiêu chí về thu nhập từ khách du lịch: Bao gồm các khoản thu do khách du lịch chi trả, đó là: thu nhập từ cơ sở lưu trú và ăn uống, kinh doanh tuyến du lịch, điểm du lịch, từ vận chuyển khách du lịch và từ các dịch vụ du lịch khác. Thực tế cho thấy, tất cả các khoản này không phải chỉ do KTDL trực tiếp thu mà còn do nhiều ngành khác có tham gia các hoạt động du lịch thu. Bên cạnh đó, thu nhập từ khách du lịch cũng được thu bởi một số ngành dịch vụ khác không những chỉ phục vụ người dân địa phương, mà cùng phục vụ cho cả du khách (ví dụ: giao thông công cộng, bảo hiểm, dịch vụ y tế, ngân hàng, bưu điện, phim ảnh, v.v…).

Tiêu chí về tổng sản phẩm ngành du lịch: ―Tổng sản phẩm trong nước


(GDP) là một trong những chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng trong hệ thống Tài khoản quốc gia được sử dụng với mục đích nhằm đánh giá kết quả tổng hợp hoạt động kinh tế, nghĩa là đánh giá khối lượng và tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, tỉnh, thành phố và từng ngành kinh tế‖ , đánh giá kết quả KTDL của cả nước cũng như của từng vùng, từng trung tâm du lịch trong một giai đoạn phát triển.

Tiêu chí về hiệu quả KTDL: Xét về hiệu quả kinh doanh thì đây là chỉ tiêu thể hiện mức độ sử dụng các yếu tố sản xuất, tài nguyên du lịch, nhằm tạo ra và tiêu thụ một khối lượng lớn nhất các dịch vụ và hàng hóa có chất lượng cao trong một khoảng thời gian nhất định. Đồng thời, nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch với chi phí nhỏ nhất, đạt mức thu nhập từ khách du lịch cao nhất. Hay nói cách khác, hiệu quả KTDL phản ánh trình độ sử dụng nguồn lực có sẵn để đạt được kết quả sản xuất kinh doanh cao với chi phí thấp nhất.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.

Bên cạnh hiệu quả kinh doanh du lịch, hoạt động của KTDL cũng phải tính đến hiệu quả KT - XH. Tức là phải tính đến mức đóng góp vào tăng trưởng chung của nền kinh tế, tạo việc làm và thu nhập cho người dân, sức lôi kéo sự phát triển của các ngành kinh tế khác và hiệu ứng tích cực đối với bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo phát triển bền vững.

1.2.4. Các nhân tố tác động đến phát triển KTDL

Phát triển kinh tế du lịch thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh - 5

1.2.4.1. Vai trò của nhà nước trong phát triển KTDL

Thứ nhất, Nhà nước tạo môi trường kinh tế, chính trị và xã hội. Do KTDL được vận hành theo nguyên tắc thị trường, tác động qua lại giữa người bán và người mua sản phẩm du lịch, nên môi trường kinh doanh là yếu tố rất quan trọng. Thực tế cho thấy, khách du lịch chỉ có thể đến các điểm du lịch, các nước có sự ổn định và an toàn. Sự ổn định về môi trường kinh tế, chính trị và xã hội là một yếu tố rất quan trọng cho KTDL của một nước hay một vùng.

Môi trường chính trị thể hiện trước hết ở hệ thống pháp luật, chính sách và thể chế của một quốc gia. Một nền chính trị hòa bình, ổn định sẽ là tiền đề


quan trọng cho sự phát triển nói chung, KTDL nói riêng. Thực tế cho thấy, một quốc gia mặc dù có nhiều tài nguyên về du lịch cũng không thể phát triển được du lịch nếu như ở đó luôn xảy ra những sự kiện hoặc thiên tai làm xấu đi tình hình chính trị và hòa bình (không có điều kiện để phát triển KTDL và cũng không thu hút đư ợc khách du lịch).

Môi trường KT - XH của KTDL thể hiện trước hết ở mức độ phát triển của các ngành nghề và tình hình về năng suất lao động ở quốc gia đó. Do KTDL là ngành kinh tế tổng hợp, nên nó chỉ phát triển khi các ngành kinh tế khác được phát triển. Không thể nói KTDL phát triển trong điều kiện kết cấu hạ tầng kỹ thuật, các ngành nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, giao thông, bưu chính viễn thông, điện, nước, khách sạn, nhà hàng… còn ở trình độ thấp. Khi thu nhập bình quân đầu người tăng lên, mức sống và chất lượng cuộc sống của người dân được nâng lên, thì nhu cầu du lịch của họ cũng được nâng lên. Khi nền kinh tế còn nhiều nguồn lực chưa được sử dụng, nếu cầu du lịch tăng, thì tất yếu làm cung về du lịch tăng lên.

Thứ hai, Nhà nước hoạch định chiến lược, quy hoạch phát triển KTDL

Chiến lược phát triển KTDL là một bộ phận cấu thành trong chiến lược phát triển KT - XH của Đảng và Nhà nước. Nó quy định những mục tiêu lâu dài, cơ bản và những nhiệm vụ chủ yếu về sự phát triển KTDL, những con đường và cách thức để thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ đó, phương hướng chung của sự phát triển kinh tế trong một thời kỳ dài. Chiến lược phát triển KTDL là công cụ để cung cấp một tầm nhìn dài hạn về hoạt động của KTDL trong một giai đoạn lịch sử nhất định.

Quy hoạch du lịch là tập hợp lý luận và thực tiễn, nhằm thực hiện hoặc tham gia vào những lựa chọn tổng thể; hoặc những điểm du lịch riêng rẽ có liên quan đến quá trình đầu tư sản xuất như: đầu tư cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng, bảo tồn, tôn tạo tài nguyên môi trường du lịch, nâng cao chất lượng dịch vụ, chất lượng nguồn lao động, tăng cường tuyên truyền quảng bá, thực


hiện các chiến lược về thị trường… Công tác này được thực hiện tốt có thể làm gia tăng những lợi ích từ du lịch và giảm thiểu những tác động tiêu cực mà KTDL có thể đem lại cho cộng đồng, cho DNDL. Nếu công tác quy hoạch có chất lượng thì nó sẽ giúp cho yếu tố cung du lịch và cầu du lịch phù hợp với nhau, tạo ra sự cân bằng cung - cầu, giúp cho thị trường du lịch phát triển lành mạnh, góp phần nâng cao hiệu quả của KTDL. Ngược lại, công tác này được thực hiện không tốt có thể dẫn đến sự phát triển KTDL thiếu tính kiểm soát. Những lợi ích ngắn hạn trước mắt có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng trong tương lai như: suy giảm tài nguyên môi trường, giảm sự hấp dẫn du khách, làm cho tính thời vụ cao gây lãng phí tài nguyên, cơ sở vật chất - kỹ thuật, nguồn lao động và vốn… từ đó làm suy giảm hiệu quả KT - XH.

1.2.4.2. Tiềm năng về các nguồn lực cho phát triển kinh tế du lịch

Tiềm năng về các nguồn lực cho phát triển KTDL bao gồm tài nguyên du lịch, nguồn vốn, nhân lực cho hoạt động du lịch.

Tài nguyên du lịch bao gồm tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn. Những nguồn tài nguyên này là yếu tố tạo ra các cơ hội và sự kiện đặc biệt, điều kiện thị trường cho thu hút khách du lịch. Quy mô nguồn tài nguyên du lịch càng lớn, chất lượng của chúng càng cao và có nhiều tính độc đáo thì càng có điều kiện để thu hút du khách, mở rộng thị trường cho hoạt động kinh doanh du lịch. Tài nguyên du dịch là yếu tố quan trọng tác động đến quy mô, chất lượng và tính độc đáo của sản phẩm du lịch. Nguồn tài nguyên càng phong phú và đa dạng càng thu hút được nhiều du khách cả trong và ngoài nước.

Nguồn nhân lực du lịch: KTDL là ngành sử dụng nhiều nhân lực, vì vậy, nguồn nhân lực là một trong những nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến KTDL. Con người bằng sức lao động của mình sử dụng cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch để khai thác các giá trị tài nguyên du lịch tạo ra dịch vụ, hàng hóa cung ứng cho du khách. Nếu một quốc gia hay một doanh nghiệp xây dựng được


nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao là yếu tố cực kỳ quan trọng để tạo ra nhiều sản phẩm du lịch có chất lượng cao, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cao của điểm đến du lịch nói chung và mỗi doanh nghiệp nói riêng.

Nguồn vốn có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của KTDL. KTDL là một trong những yếu tố cấu thành nên nền kinh tế, do đó đây là một ngành rất cần vốn đầu tư, nhất là đầu tư trang bị CSVC - HT cũng như cơ sở lưu trú du lịch. KTDL có cạnh tranh thu hút được nhiều du khách hay không một phần lớn là nhờ vào mức độ hiện đại của CSVC - HT và cơ sở lưu trú du lịch. Mà mức độ hiện đại của CSVC - HT và cơ sở lưu trú du lịch hoàn toàn phụ thuộc vào quy mô, hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư.

1.2.4.3. Quy mô và chất lượng hoạt động của các cơ sở cung ứng sản phẩm, dịch vụ du lịch

Số lượng, quy mô và chất lượng hoạt động của các cơ sở cung ứng sản phẩm, dịch vụ du lịch có ảnh hưởng quan trọng tới sự phát triển của KTDL. Nếu các nhà kinh doanh du lịch cung ứng ra thị trường những sản phẩm du lịch phù hợp với mùa vụ, thị hiếu của du khách, đồng thời, với chiến lược giá cả phù hợp sẽ thu hút được du khách đến và lưu trú dài hơn. Đồng thời, các tổ chức kinh doanh du lịch cùng tồn tại và phát triển sẽ tạo ra sự cạnh tranh để nâng cao chất lượng phục vụ. Quy mô các tổ chức kinh doanh du lịch càng lớn sẽ càng có điều kiện để đầu tư chiều sâu, ứng dụng KH - CN, mở rộng liên doanh liên kết, đào tạo nguồn nhân lực, phát triển đồng bộ các loại hình du lịch để hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển.

Bên cạnh đó, việc nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch sẽ giúp cho các DNDL tăng khả năng cạnh tranh, tạo niềm tin, danh tiếng đối với du khách. Khi chất lượng sản phẩm, dịch vụ du lịch được nâng cao, dưới con mắt khách hàng và thị trường thì những sản phẩm dịch vụ vượt mức trông đợi của khách hàng sẽ có giá trị cao hơn so với những sản phẩm dịch vụ cùng loại của đối


thủ cạnh tranh và như vậy thì lượng khách hàng sẽ tăng và điều đó có nghĩa là hiệu quả kinh tế và lợi nhuận của DNDL cũng tăng theo.

1.2.4.4. Hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của nó đến kinh tế du lịch

a. Hội nhập kinh tế quốc tế và sự cần thiết phát triển kinh tế du lịch trong hội nhập kinh tế quốc tế

HNKTQT là quá trình các quốc gia chủ động gắn kết nền kinh tế của nước mình với kinh tế khu vực và thế giới bằng các nỗ lực thực hiện tự do hóa kinh tế và giảm thiểu sự khác biệt để trở thành một bộ phận hợp thành của chỉnh thể kinh tế toàn cầu. HNKTQT tất yếu thúc đẩy hội nhập KTDL giữa các nước. Sở dĩ như vậy, bởi vì hiện nay sự phát triển của phân công lao động xã hội được mở rộng trên phạm vi quốc tế. Phân công lao động quốc tế có bước phát triểnnmới, ngày càng sâu sắc làm cho các nền kinh tế quốc gia ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, đưa đến sự hình thành nền kinh tế toàn cầu như một chỉnh thể thốngnnhất. KTDL là ngành dịch vụ cũng không nằm ngoài xu thế trên.

Mặt khác, sự tiến bộ của KH - CN làm cho phân công lao động quốc tế có sự biến đổi quan trọng. Ngày nay, phân công lao động quốc tế chủ yếu là phân công theo trình độ, chuyên môn hóa sản xuất ngày càng sâu sắc, hợp tác quốc tế sản xuất ngày càng mở rộng. Nhiều sản phẩm là kết quả hợp tác nhiều cơ sở sản xuất của nhiều nước khác nhau. KTDL là ngành sản xuất ra sản phẩm du lịch để cung ứng ra thị trường. Để có được sản phẩm có chất lượng đáp ứng nhu cầu thị trường thì đòi hỏi phải có sự phân công lao động, chuyên môn hóa rất cao. Sản phẩm ấy phải là sự kết hợp bởi một chuỗi các dịch vụ khác nhau. Đồng thời, sự gia tăng mạnh mẽ thương mại quốc tế, tốc độ tăng trưởng mậu dịch quốc tế vượt xa tốc độ tăng trưởng kinh tế của thế giới. Xu hướng tất yếu của cuộc cách mạng KH - CN sẽ đòi hỏi các quốc gia phải lien kết trong KTDL.


Vì vậy, KTTT và HNKTQT càng mở rộng, càng thúc đẩy các quan hệ quốc tế của KTDL, hội nhập KTDL trở thành xu thế tất yếu trong quá trình phát triển KT - XH của một quốc gia. Chính do tác động của xu thế này, trong công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương chủ động HNKTQT, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn trong các quan hệ kinh tế toàn cầu và song phương.

b. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến kinh tế du lịch

HNKTQT vừa tạo ra những cơ hội để một nước phát triển KTDL, đồng thời nó cũng đặt ra không ít thách thức trong quá trình phát triển.

Những cơ hội mà HNKTQT đem lại:

Thứ nhất, tăng thị phần du lịch quốc tế: HNKTQT sâu hơn, rộng hơn sẽ giúp gia tăng thị phần KTDL của các quốc gia trên thế giới. Hội nhập sẽ giúp gia tăng cầu về du lịch, từ đó cung về du lịch được mở rộng. Kết quả là, KTDL sẽ được phát triển về các mặt: đóng góp của KTDL vào GDP tăng, tăng thu ngoại tệ ròng, mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội với các nước, nâng vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế…. Như vậy, phát triển KTDL phải là một nội dung quan trọng trong phát triển KT - XH ở nước ta hiện nay.

Thứ hai, Cơ hội được cải cách: Đối với DNDL khi hội nhập là sức ép buộc phải có sự cải cách mạnh mẽ tại bản thân mỗi doanh nghiệp nếu muốn tồn tại trên thị trường. Các DNDL Việt Nam sẽ được tiếp cận và học hỏi trình độ quản lý tiên tiến của các tập đoàn du lịch lớn trên thế giới. Mặt khác, với nhiều kinh nghiệm hoạt động lâu năm trên phạm vi quốc tế, các DNDL nước ngoài sẽ giúp các DNDL Việt Nam chuyển giao kinh nghiệm khai thác khách và đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác quảng bá và marketing du lịch.

Thứ ba, mở rộng thị trường và phát triển những loại hình du lịch mới: HNKTQT là cơ hội cho phép thêm các DNDL lữ hành có vốn đầu tư nước ngoài tham gia cung cấp dịch vụ kinh doanh gửi khách tại thị trường trong


nước sẽ tăng thêm năng lực khai thác khách du lịch inbound (khách du lịch quốc tế vào Việt Nam) và làm cho hoạt động du lịch sẽ phát triển mạnh mẽ.

Thứ tư, mở ra cho KTDL ở các quốc gia trên thế giới những cơ hội cạnh tranh mới, từ đó thu hút thêm nhiều vốn đầu tư nước ngoài, tạo công ăn việclàm, nâng cấp CSVC - HT và trang thiết bị cho KTDL. Nhờ những cơ hội cạnh tranh mới mà các hoạt động kinh doanh lữ hành, lưu trú cũng mở rộng, các điểm du lịch, hàng hóa thủ công và các dịch vụ khác cũng phát triển. Thông qua HNKTQT mà KTDL Việt Nam nói chung và các Quảng Ninh nói riêng có thể học hỏi kinh nghiệm của các vùng, quốc gia ở trên thế giới một cách nhanh chóng và dễ dàng.

Thứ năm, cơ hội có được hệ thống chính sách hỗ trợ có hiệu quả: Tạo cơ hội đểcác nhà hoạch định chính sách ở Việt Nam nắm bắt tốt hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó có thể đề ra chính sách cho phù hợp để phát triển KTDL. Việc chính phủ cam kết về xây dựng tính minh bạch, có thể dự đoán được trong các quy định và chính sách về phát triển kinh tế nói chung và KTDL nói riêng sẽ tạo ra tiền đề phát triển lành mạnh hơn cho các DNDL.

Những thách thức của HNKTQT đang đặt ra:

Thư nhất, bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống: HNKTQT sẽ tạo điều kiện cho các quốc gia giao lưu kinh tế, đồng thời với quá trình đó, hoạt động văn hóa cũng được giao thoa. Vì vậy, bên cạnh cơ hội chủ động tiếp thu những giá trị văn hóa của thế giới trên cơ sở phát huy bản sắ c của truyền thống văn hóa dân tộc sẽ là nguy cơ tiếp thu tràn lan, thiếu chọn lọc, dẫn đến bị mất bản sắc văn hóa truyền thống, bị hòa tan vào trong thế giới toàn cầu hóa.

Thứ hai, tăng sức ép về môi trường: Sự phát triển ồ ạt các sản phẩm du lịch ở một quốc gia có thể dẫn đến khó khăn trong quản lý và nguy cơ hủy hoại môi trường sinh thái, làm suy giảm đa dạng sinh học. Ngày nay, hoạt động không có sự kiểm soát của KTDL có thể dẫn đến tàn phá môi trường

Xem tất cả 101 trang.

Ngày đăng: 17/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí