7
K42C
Bốn phương thức cung cấp dịch vụ trên là yếu tố chủ yếu trong các cam kết của
các thành viên WTO liên quan đến tiếp cận thị trường và chế độ đãi ngộ quốc gia. Trong đó, hiện diện thương mại được các nước quan tâm nhất và có nhiều cam kết chi tiết nhất trong các hiệp định thương mại.
III. Kinh nghiệm và bài học của các nước về việc thực hiện các cam kết trong lĩnh vực tài chính ngân hàng sau khi gia nhập WTO
Sự kiện Việt Nam gia nhập WTO đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Theo đó, Việt Nam sẽ phải mở cửa thị trường ở hầu hết các lĩnh vực, trong đó có thị trường dịch vụ tài chính. Việc nghiên cứu những kinh nghiệm mở cửa của thị trường của các nước là một điều rất cần thiết đối với Việt Nam. Trong khuôn khổ bài khóa luận, người viết xin đi vào tìm hiểu những kinh nghiệm của Trung Quốc (một nước đang phát triển và có những điều kiện kinh tế xã hội và chính trị gần giống với Việt Nam) và Canada (một nước phát triển và đã là thành viên của GATT hơn 50 năm), từ đó rút ra một số bài học cho tiến trình mở cửa dịch vụ tài chính ngân hàng của Việt Nam trong thời gian sắp tới.
3.1. Kinh nghiệm và bài học của Trung Quốc từ việc thực hiện các cam kết về tài chính ngân hàng sau khi gia nhập WTO
3.1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trong 5 năm trở lại đây, Trung Quốc đã bắt đầu thay đổi cơ bản ngành tài chính của mình, mạnh dạn mở cửa cho công ty nước ngoài tham gia. Tư tưởng chỉ đạo chung cho việc mở cửa thị trường tài chính là Trước hết, mở cửa thị trường dịch vụ thông thường, sau đến các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm và các loại dịch vụ tiền tệ khác, cuối cùng là mở cửa thị trường tư bản ngắn hạn và thị trường chứng khoán. Cụ thể:a) Đối với ngành Bảo hiểm
Quá trình tự do hóa dịch vụ bảo hiểm của Trung Quốc diễn ra nhanh. Đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, chủ thể tham gia thị trường bảo hiểm là doanh nghiệp nhà nước. Cuối thập niên 80, tình trạng độc quyền bảo hiểm của nhà nước bị phá vỡ. Hiện nay có khoảng 34 công ty bảo hiểm nước ngoài được cấp phép hoạt động tại Trung Quốc.
Có thể bạn quan tâm!
- Cam kết gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực tài chính ngân hàng và lộ trình thực hiện - 1
- Cam kết gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực tài chính ngân hàng và lộ trình thực hiện - 2
- Kinh Nghiệm Và Bài Học Của Canada Từ Việc Thực Hiện Các Cam Kết Về Tài Chính Ngân Hàng Sau Khi Gia Nhập Wto .
- Nội Dung Các Cam Kết Về Lĩnh Vực Tài Chính Ngân Hàng Của Việt Nam Và Lộ Trình Thực Hiện
- Nội Dung Cam Kết Về Ngân Hàng Và Lộ Tr Ình Thực Hiện
Xem toàn bộ 147 trang tài liệu này.
8
K42C
- Đối với phương thức cung cấp dịch vụ qua biên giới: Trung Quốc mở cửa thị
trường bảo hiểm và tái bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển và đường hàng không cũng như môi giới bảo hiểm và tái bảo hiểm.
- Đối với phương thức tiêu dùng ở nước ngoài: Trung Quốc đã mở cửa hết, không đặt ra các hạn chế nào, ngoại trừ môi giới bảo hiểm với mục tiêu nhằm lôi kéo các doanh nghiệp nước ngoài cung cấp dịch vụ gắn với đầu tư trực tiếp.
- Đối với phương thức hiện diện thương mại: Trung Quốc hạn chế phần vốn góp của bên nước ngoài trong liên doanh, nhưng không hạn chế hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Một vài hạn chế địa lý được đưa ra nhưng chỉ có giá trị trong thời gian ngắn (khoảng 3 năm) nên không gây ảnh hưởng lớn đến các hoạt động của doanh nghiệp.
Trung Quốc không đặt ra hạn chế đáng kể về phạm vi kinh doanh nhưng hướng doanh nghiệp nước ngoài vào kinh doanh loại hình Bảo hiểm bao và bảo hiểm thương mại quy mô lớn. Trung Quốc sẵn sàng mở rộng thị trường bảo hiểm nhân thọ, đặc biệt bảo hiểm mang tính phúc lợi như bảo hiểm y tế, bảo hiểm hưu trí, trợ cấp trên cơ sở không phân biệt đối xử.
Tuy nhiên, chính sách cấp phép của Trung Quốc đã thanh lọc khá hiệu quả bằng cách đặt ra những tiêu chuẩn cao đối với các nhà cung cấp dịch vụ. Cụ thể: Để thành lập một công ty bảo hiểm, có vốn đầu tư nước ngoài cần phải là một công ty bảo hiểm nước ngoài đã hoạt động trên 30 năm và thành lập văn phòng đại diện trong 2 năm liên tiếp ở Trung Quốc. Ngoài ra, tổng tài sản vào cuối năm trước đó không được thấp hơn 5 tỷ USD. Đối với công ty môi giới bảo hiểm, công ty này cần có tài sản lớn hơn 500 triệu USD vào thời điểm gia nhập WTO, 400 triệu USD vào năm thứ nhất, 300 triệu USD vào năm thứ 2, 200 triệu USD vào năm thứ tư. Hạn chế thương mại của Trung Quốc loại bỏ theo lộ trình từ 3 đến 5 năm.
b) Đối với ngành Ngân hàng
Hiện tại 180 ngân hàng nước ngoài hoạt động trên thị trường Trung Quốc dưới nhiều hình thức: 164 chi nhánh, 233 văn phòng đại diện chiếm 2% thị phần. Chính phủ
9
K42C
Trung Quốc vẫn thực hiện chính sách mở cửa thận trọng, bảo hộ doanh nghiệp trong nước đủ thời gian để tái cơ cấu và củng cố, để đối phó với cạnh tranh từ bên ngoài.
Theo cam kết năm 1994, các ngân hàng nước ngoài chỉ được hoạt động ở một số khu vực địa lý nhất định, chỉ được nhận tiền gửi từ các cá nhân không phải là công dân Trung Quốc và bằng ngoại tệ, không được cho vay đối với công dân Trung Quốc. Trong quá trình đàm phán, những hạn chế đó bị loại bỏ đối với trường hợp kinh doanh bằng ngoại tệ. Đặc biệt đối với các cá nhân là người Trung Quốc, các ngân hàng được cung cấp dịch vụ sau 5 năm kể từ khi Trung Quốc gia nhập WTO.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng đặt ra yêu cầu cao về vốn kinh doanh đối với các ngân hàng nước ngoài để mở chi nhánh trên thị trường Trung Quốc. Các ngân hàng nước ngoài, mỗi năm chỉ được mở thêm 1 chi nhánh, Ngân hàng nhân dân Trung Quốc đưa ra mức sàn về vốn đăng ký từ 100 triệu Nhân dân tệ (NDT) (tương đương với 12 triệu USD)
để có được giấy phép cho đến 600 triệu NDT (tương đương 73 triệu USD) để cung cấp tất cả các loại dịch vụ ngân hàng. Có thể coi đây là một biện pháp nhằm thanh lọc và do đó, chỉ các ngân hàng nước ngoài lớn mới có thể tiếp cận thị trường Trung Quốc. Đ ây là một biện pháp bảo hộ của Chính phủ Trung Quốc đối với các ngân hàng trong nước. Cùng với hạn chế về địa lý, các yêu cầu đảm bảo an toàn đã làm giảm đáng kể năng lực cạnh tranh cũng như khả năng phát triển thị trường của các ngân hàng nước ngoài.c) Đối với ngành Chứng khoán.
Theo quy định ban hành năm 2002, Trung Quốc chỉ cho phép các tổ chức đầu tư nước ngoài chuyên nghiệp được tham gia TTCK, bao gồm 4 đối tượng: NHTM, công ty bảo hiểm, công ty quản lý quỹ và công ty chứng khoán. Các tổ chức này phải có kinh nghiệm kinh doanh và phải có vốn kinh doanh chứng khoán từ 10 tỉ USD trở lên, sau 3 năm đầu tư chứng khoán mới được chuyển vốn gốc ra nước ngoài và mỗi lần không quá 20% tổng hạn mức đầu tư, thời gian giữa hai lần chuyển vốn ra nước ngoài tối thiểu là một tháng.
Biện pháp Trung Quốc áp dụng đối với thị trường chứng khoán
- Tiếp tục củng cố việc xây dựng cơ sở hạ tầng thị trường và hoàn thiện hệ thống luật pháp cho thị trường vốn chủ động hợp tác đối với các cơ quan lập pháp xây dựng quy
10
K42C
chế về luật đồng thời học hỏi kinh nghiệm để cải thiện những quy định hoạt động trên thị trường vốn.
- Nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ ủy thác, cơ quan chính phủ cần khuyến khích thực hiện nhiệm vụ ủy thác
- Cải thiện chất lượng và tiêu chuẩn hoạt động của các công ty niêm yết.
- Nâng cao cơ chế quản trị công ty, mở cửa các kênh tài chính giảm thiểu rủi ro tài
chính.
- Nâng cấp và hoàn thiện chức năng của thị trường chứng khoán, xây dựng mối
liên hệ giữa thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ.
- Cải thiện cở sở hạ tầng và cơ cấu sản phẩm để đáp ứng yêu cầu của các tổ chức, cá nhân tham gia.
- Tăng cường biện pháp bảo vệ nhà đầu tư, tăng cường hợp tác với nước ngoài trong trao đổi thông tin và phòng ngừa rủi ro tài chính.
3.1.2. Bài học cho Việt Nam trong quá trình thực hiện các cam kết về tài chính ngân hàng sau khi gia nhập WTO
Việt Nam gia nhập WTO, do vậy cần thiết phải chuẩn bị điều kiện sẵn sàng để thực hiện cam kết, lựa chọn, bước đi phù hợp với quá trình mở cửa của nền kinh tế. Về dịch vụ có thể nói, Việt Nam cam kết tương đương Trung Quốc, ngang bằng, thậm chí cao hơn những nước mới gia nhập WTO. Bài học cho Việt Nam bao gồm:
- Chính sách mở cửa thị trường không nên xác định theo phạm vi ngành theo phạm vi rộng nhất của nó, mà nên xác định cụ thể cho từng phân ngành. Với những phân ngành có năng lực tài chính tốt, tự do hóa mang lại những lợi ích lớn, trực tiếp hoặc gián tiếp, nên có những bước đi mạnh danh, thậm chí mở cửa hoàn toàn.
- Các hạn chế quan trong nhất đối với hiện diện thương mại của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài là quy định về sự tham gia trong liên doanh, thông thường đó là giới hạn về tỷ lện góp vốn của phía nước ngoài. Tuy nhiên cần phải có lộ trình giảm dần tỷ lệ hạn chế này.
- Một số ngành nhạy cảm, một sự cam kết unbound là khôn ngoan song việc chuẩn bị sẵn sàng cho những cam kết cụ thể là hết sức cần thiết khi quá trình hội nhập là