Phát triển hoạt động mua bán - sáp nhập ngân hàng tại Việt Nam - 10


khai

xét v

Về giá trị thương vụ: Các thương vụ M&A trong khối ngân hàng hiếm khi công khía cạnh tài chính của thương vụ. Do đó, đây là một hạn chế lớn để có thể nhận ề xu hướng tăng trưởng giá trị M&A của ngành. Tuy nhiên, bằng cái nhìn thông

qua những con số mà nhà đầu tư nước ngoài bỏ vào các ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2015 để thấy được phần nào quy mô giao dịch của các giao dịch trong các thương vụ M&A ngân hàng như IFC bỏ ra khoản tiền 182 triệu USD để sở hữu 10% cổ phần tại Vietinbank, Mizuho bỏ ra hơn 567 triệu đô la Mỹ nhằm góp vốn vào Vietcombank hay điển hình là thương vụ kỷ lục của BTMU trả 743 triệu USD để mua gần 20% cổ phần của Vietinbank.

Mở rộng quy mô, mạng lưới hoạt động: Nhìn chung, hầu hết các ngân hàng sau khi nhận được nguồn vốn đầu tư lớn từ các đối tác chiến lược đều nâng cao được tiềm lực tài chính của mình, từ đó mở rộng mạng lưới hoạt động phủ khắp, rộng rãi hơn khắp trong và ngoài nước, thành lập nhiều chi nhánh, công ty con hiệu quả hơn. Điển hình như Vietnam Post góp vốn với Lienvietbank thành Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank) trở thành một trong 10 NHTM CP lớn nhất tại Việt Nam. Nhờ đó, LienVietPostBank sẽ trở thành ngân hàng có hệ thống mạng lưới rộng nhất, có mặt tại những xã vùng sâu, vùng xa nhất của Việt Nam với hơn 10.000 điểm giao dịch trên cả nước. Hay như Sacombank nhận sáp nhập SouthernBank đưa hệ thống chi nhánh và phòng giao dịch từ con số hơn 400 lên 563 điểm, đồng thời trong 3 năm tiếp theo ngân hàng sẽ mở thêm 82 điểm giao dịch mới. Hay trường hợp của BIDV, sau khi nhận sáp nhập MHB, ngân hàng này cũng có tới 980 điểm giao dịch trong đó 182 Chi nhánh và 798 Phòng giao dịch, mà theo như cách lý giải của CEO ngân hàng này thì bằng việc sáp nhập BIDV đã rút ngắn tới 7 năm mở rộng mạng lưới. Các ngân hàng khác cũng lựa chọn phương án sáp nhập và tăng quy mô nhanh chóng như HDBank nhận sáp nhập DaiABank, hệ thống của SHB cũng tăng lên sau khi nhập Habubank, Maritimebank khi nhận MDB, hay hệ thống của SCB sau khi sáp nhập SCB, TinNghiaBank, Ficombank, và rồi tới đây là trường hợp của Vietinbank sau khi có PGBank.

Tăng quy mô, tiềm lực tài chính: Năng lực tài chính của hệ thống từng bước được lành mạnh thông qua tăng vốn điều lệ và quy mô tài sản. Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng các ngân hàng vẫn nỗ lực cải thiện năng lực tài chính và tăng vốn điều lệ để tạo điều kiện mở rộng hoạt động và nâng cao khả năng đối phó với các rủi ro trong hoạt động. Theo báo cáo của NHNN, trong giai đoạn 2011 – 2013, đã có những biến chuyển rõ rệt về năng lực tài chính của toàn hệ thống sau khi thực hiện các thương vụ M&A. Cụ thể, năm 2012, vốn điều lệ toàn hệ thống tăng 11,29% và đến cuối năm 2013 vốn điều lệ của toàn hệ thống là 423,98 nghìn tỷ đồng, tăng 31,8 nghìn


63

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.

tỷ đồng (8,12%) so với cuối năm 2012. Hay những con số về tổng tài sản toàn hệ thống cũng nói lên tính hiệu quả trong việc mua bán – sáp nhập các ngân hàng. Thống kê tình hình hoạt động của các tổ chức tín dụng tháng 12/2015 vừa được Ngân hàng Nhà nước công bố cho thấy tổng tài sản của hệ thống đạt hơn 7,3 triệu tỷ đồng, tăng 12,35% so với cuối năm ngoái. Cũng theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, vốn tự có của toàn hệ thống đến cuối tháng 12/2015 đạt 578.000 tỷ đồng, tăng 16,4% so với cuối năm ngoái.

M&A là công cụ góp phần nâng cao tính thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, đảm bảo quyền lợi cho khách hàng. Điển hình ở Việt Nam trong thời gian qua là các thương vụ M&A đều có sự can thiệp từ phía Nhà nước và các cơ quan chức năng. Do vậy, quyền lợi của người gửi tiền hợp pháp tại các ngân hàng Việt Nam sẽ được đảm bảo hơn, NHNN thực hiện hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng yếu kém, và khi tổ chức đó tiến hành M&A, NHNN cũng sẽ tiếp tục hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng khi tiếp hành sáp nhập hoặc hợp nhất. Với tư cách đại diện vốn Nhà nước, NHNN đảm bảo để ngân hàng sau hợp nhất không bị phá sản, đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền hợp pháp, qua đó ổn định kinh tế vĩ mô cũng như tình hình chính trị, xã hội.

Phát triển hoạt động mua bán - sáp nhập ngân hàng tại Việt Nam - 10

Nhận được sự hỗ trợ về công nghệ, quản lý từ tập đoàn tài chính nước ngoài. Việc các tập đoàn tài chính nước ngoài mua cổ phần tại Việt Nam không những giúp cho các ngân hàng trong nước nâng cao vốn mà còn được hỗ trợ về công nghệ, học hỏi khoa học, kỹ thuật tiên tiến, trình độ quản lý của nước ngoài.

Hỗ trợ kỹ thuật: chuyển giao công nghệ kỹ thuật, đặc biệt trong quản trị, phát triển sản phẩm dịch vụ, tối ưu hóa hệ thống, định giá sản phẩm và đo lường hiệu quả sản phẩm, dịch vụ;

Hỗ trợ quản trị điều hành: cử đại diện tham gia quản trị điều hành hoạt động kinh doanh của ngân hàng, tham gia hoạch định chiến lược kinh doanh ở cả cấp doanh nghiệp và cấp sản phẩm.

Cơ hội tạo điều kiện hình thành các tập đoàn tài chính ngân hàng trong nước. Hầu hết các ngân hàng đều phấn đấu và có kế hoạch phát triển thành tập đoàn tài chính ngân hàng để có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường đầy rủi ro, tránh bị tổ chức nước ngoài thôn tính về sau. Nhờ thực hiện các vụ mua bán – sáp nhập ngân hàng và các doanh nghiệp trong và ngoài nước dưới các hình thức khác nhau như hợp tác bán cổ phần mà Sacombank đã tích lũy trở thành tập đoàn TCNH đầu tiên tại Việt Nam, mặc dù mới thành lập nhưng tập đoàn Sacombank đã phát triển rất nhanh chóng do có lợi thế về quy mô cũng như sự phối hợp nhịp nhàng của các công ty trong tập đoàn, cung cấp cho Khách hàng dịch vụ tài chính trọn gói, đem đến tiện ích tối đa cho

64



khác

các n hướn

h hàng, kinh nghiệm thành lập tập đoàn TCNH của Sacombank rất quý giá cho gân hàng khác trong nước. Tuy nhiên hoạt động mua bán – sáp nhập theo định g hình thành tập đoàn tài chính ở nước ta còn những tồn tại cần khắc phục.

2.8.2. Những hạn chế và nguyên nhân

Hạn chế

Hoạt động M&A nói chung và NHTM nói riêng ở nước ta còn khá khiêm tốn cả về số lượng lẫn quy mô so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Thực tế thì làn sóng M&A ở Việt Nam những năm gần đây đã sôi động hẳn lên bởi sự tham gia của các tập đoàn tài chính - ngân hàng nước ngoài. Tuy nhiên, quy mô và giá trị so với khu vực còn khá dè dặt, theo thông tin của Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế xã hội quốc gia (NCEIF), trong năm 2014 hoạt động M&A thế giới tăng 57%, đạt 4.400 tỷ USD, trong khi Việt Nam chỉ tăng 33%, thị trường đạt khoảng 4,2 tỷ USD với 313 giao dịch. So với các nước trong khu vực, giá trị giao dịch trung bình mỗi thương vụ cũng khá khiêm tốn, với khoảng 130 triệu USD, trong khi các nước trong khu vực đạt khoảng 400 triệu USD.

Tổng tài sản tăng nhưng chất lượng tài sản sau M&A lại giảm do các khoản lỗ và nợ xấu tăng. Trong trường hợp một ngân hàng phải sáp nhập với một ngân hàng yếu và tỷ lệ nợ xấu cao, mặc dù tổng tài sản có tăng lên nhưng nếu chất lượng tài sản sau M&A không đảm bảo thì khó có thể nói rằng việc tích hợp giữa hai bên sẽ mang lại cho ngân hàng mới lợi thế cạnh tranh hơn, hoặc ngang ngửa so với những ngân hàng đang có khối lượng tài sản tương đương. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh, đến thương hiệu, vị thế của ngân hàng và sau đó là đến thu nhập của từng người lao động. Đây chính là một trong những rào cản lớn nhất trong quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay. Với việc sáp nhập Habubank, SHB phải xử lý khoản lỗ nghìn tỷ và hàng tỷ đồng nợ xấu. Sau khi sáp nhập với Habubank, lợi nhuận trước thuế 9 tháng của SHB lỗ 1.105 tỷ đồng, trong khi 6 tháng (thời điểm trước sáp nhập) ngân hàng này lãi hơn 600 tỷ đồng. Nợ xấu của SHB ở thời điểm 30/09/2012 đạt hơn 6.200 tỷ đồng, chiếm 13,23% tổng dư nợ, trong khi đầu năm trước khi sáp nhập, tỷ lệ nợ xấu của SHB chỉ ở mức 2,23%.

Tính đến thời điểm hiện tại, tỷ lệ nợ xấu của nhiều NH đã giảm đáng kể, song nhiều NH phải tăng chi phí dự phòng để xử lý nợ xấu. Đó là lý do lợi nhuận nhiều NH phần lớn không có tăng trưởng đột phá. Theo các lãnh đạo NH, nhiệm vụ trong tâm hiện nay vẫn là xử lý nợ xấu.

Chỉ tiêu sinh lời bị giảm sút. Có thể nhận thấy, hiệu quả hoạt động của các ngân hàng phần lớn đều cho thấy đạt được cao trong năm 2011, năm mà hoạt động mua cổ phần, góp vốn giữa các TCTD trong và ngoài nước diễn ra sôi nổi. Các chỉ tiêu thể

65

hiện khả năng sinh lời trên vốn chủ sở hữu/ tổng tài sản (ROE/ROA) đều ở mức khá cao. Một số ngân hàng với chỉ số ROA cao như Vietinbank: 1,51% (2011), Vietcombank: 1,24% (năm 2011) hay một số ngân hàng với chỉ số ROE tương đối cao sau tiến hành M&A như: SHB là 22% (năm 2012), Vietinbank và BIDV lần lượt là 10,31% và 17,2% (năm 2015). Tuy nhiên, có thể nhận thấy, các tiêu chí ROA, ROE đang có sự giảm sút đối với các ngân hàng trong giai đoạn năm 2013 – 2015.

Về hình thức thì các hoạt động M&A ở Việt Nam còn khá đơn giản. Ða số các thương vụ M&A thường dưới hình thức mua lại một phần với bản chất là góp vốn kinh doanh hoặc đầu tư dài hạn nhưng chưa có các giao dịch M&A thực sự như sáp nhập giữa các ngân hàng hoạt động ổn định, sáp nhập xuyên quốc gia để hình thành các tập đoàn ngân hàng vững mạnh đủ sức cạnh tranh mở rộng thị phần chưa có nên chưa khai thác được bản chất của M&A hay chưa có các thương vụ mang ý đồ thôn tính (Hostile takeover) ở Việt Nam, tất cả chỉ đều nhắm tới hợp tác, nâng cao tính cạnh tranh, khai thác lợi thế của nhau cùng phát triển, vượt qua khó khăn.

Rủi ro từ việc mua lại ngân hàng với giá cao: Hoạt động sau sáp nhập có thể không hiệu quả do một phần chi phí bị đẩy lên quá cao để mua được ngân hàng mục tiêu. Kết hợp với hiệu quả ban đầu sau sáp nhập chưa cao sẽ dẫn đến những khó khăn nhất định. Thách thức sẽ lớn dần lên khi mà hoạt động của các ngân hàng gặp khó khăn, khả năng trích lập dự phòng thấp, kết quả tính thanh khoản của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng.

Nguyên nhân

Nguyên nhân khách quan

Khung pháp lý về hoạt động M&A chưa đầy đủ

Hành lang pháp lý hoàn thiện là một yếu tố quan trọng thúc đẩy hoạt động M&A phát triển, tạo điều kiện xác lập giao dịch, trách nhiệm pháp lý các bên trong quá trình giao dịch và hậu sáp nhập. Các quy định liên quan tới M&A thực tế ở Việt Nam được điều chỉnh bởi các luật Cạnh tranh 2004, luật Doanh nghiệp 2005, luật Chứng khoán 2006, luật Ðầu tư 2005…Tuy nhiên các luật này quy định các vấn đề về M&A còn chồng chéo, mâu thuẫn (đơn cử như chỉ về khái niệm M&A đã có nhiều cách hiểu khác nhau quy định trong từng luật cũng khác nhau). Các quy định này thực tế chỉ dừng lại ở việc xác lập về mặt hình thức của hoạt động M&A, nghĩa là chỉ thay tên đổi họ các doanh nghiệp hậu M&A. Trong khi M&A là một hoạt động phức tạp liên quan tới nhiều lĩnh vực như pháp lý, tài chính, …đòi hỏi phải có quy chế rõ ràng, quy định cụ thể cùng với một cơ chế thị trường chào bán, chào mua doanh nghiệp, giá cả, cũng cấp thông tin, chuyển giao, xác lập quyền sở hữu, tư cách pháp nhân…minh bạch.


66



ngân

Tỷ lệ sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài tham gia M&A với các hàng trong nước còn hạn chế

Thực tế việc mở cửa cho nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam còn hạn chế chưa cho phép vượt tỷ lệ 30% vốn điều lệ ngân hàng; Sự bảo hộ một phần đối với các ngân hàng trong nước đã tác động làm cho mức độ tin cậy của các nhà đầu tư nước ngoài đối với ngân hàng Việt Nam chưa cao. Nghị định số 69/2007/NĐ-CP ngày 20/04/2007 của Chính phủ về việc quy định nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của ngân hàng Việt Nam về tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài (bao gồm cả cổ đông nước ngoài hiện hữu) và người có liên quan của các nhà đầu tư nước ngoài đó không vượt quá 30% vốn điều lệ của ngân hàng Việt Nam; Điều kiện của TCTD nước ngoài mua cổ phần của ngân hàng Việt Nam phải có tổng tài sản Có tối thiểu tương đương 20 tỷ USD vào năm trước năm đăng ký mua cổ phần; Khi các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của các ngân hàng Việt Nam được niêm yết trên TTCK, việc mua cổ phần phải theo các quy định pháp luật về chứng khoán và TTCK, phải tuân thủ tỷ lệ sở hữu cổ phần theo quy định; Một TCTD nước ngoài chỉ được là nhà đầu tư chiến lược tại một ngân hàng Việt Nam, và chỉ được tham gia hội đồng quản trị tại không quá hai ngân hàng Việt Nam. Những giới hạn này đã cản trở thu nhận nguồn vốn đầu tư nước ngoài tham gia vào hoạt động M&A của các ngân hàng trong nước.

Chưa có những quy định chặt chẽ về minh bạch thông tin trong hoạt động kinh doanh

Các ngân hàng chủ yếu lấy nguồn thông tin từ CIC, nhưng nguồn đầu vào thông tin của các doanh nghiệp, khách hàng cá nhân có giao dịch với hệ thống ngân hàng chưa được xác thực chất lượng thông tin, số liệu mức độ trung thực và tín nhiệm, làm hạn chế và ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh ngân hàng. Các ngân hàng cũng thiếu minh bạch thông tin ngân hàng mình, độ chính xác thông tin cũng chưa cao do NHNN chưa có quyết liệt áp dụng biện pháp chế tài đối với các TCTD cung cấp thông tin sai sự thật, thiếu minh bạch số liệu báo cáo tài chính theo quy định.

Thiếu các công ty tư vấn và môi giới về M&A

M&A ngân hàng là một nghiệp vụ hết sức phức tạp. Một thương vụ thường kéo dài khá lâu, luôn cần sự tham gia hỗ trợ chuyên môn: tài chính, kiểm toán, pháp lý, một đơn vị điều phối tổng thể, chuyên nghiệp. Tuy nhiên, nguồn nhân lực có thể đáp ứng được những yêu cầu cần thiết trong mỗi thương vụ M&A ở Việt Nam đang rất thiếu, chưa có một tổ chức chuyên nghiệp đào tạo nhân lực trong lĩnh vực này. Vì thế, nguồn nhân lực có chuyên môn và tay nghề cao trong lĩnh vực này có thể nói là vô cùng khan hiếm, chưa đáp ứng được với nhu cầu của thị trường. Hơn nữa, cũng bởi

67

các công ty tư vấn M&A của Việt Nam còn thiếu và yếu nên tỷ lệ thành công giao dịch mua bán doanh nghiệp còn thấp.

Hoạt động M&A ngân hàng ở Việt Nam tuy có thể nói là “non trẻ” so với các nước trên thế giới, tuy nhiên, hình thức chiến lược này đã chứng tỏ những lợi ích của nó mang lại cho các NHTM trong nước: tăng quy mô, tiềm lực tài chính, hoạt động kinh doanh đạt kết quả cao, nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Do đó, vấn đề cần quan tâm ở đây là phải thực hiện các biện pháp, tìm ra các hướng đi giúp thúc đẩy hoạt động M&A trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam ngày càng phát triển, góp phần xây dựng hệ thống ngân hàng ngày càng vững mạnh, ổn định.

Nguyên nhân chủ quan

Chưa nhận thức một cách đúng đắn về M&A

Tuy hoạt động M&A ngân hàng Việt Nam đang dần diễn ra với tính chất tự nguyện nhiều hơn, vẫn còn một số trường hợp diễn ra nhiều dưới hình thức bắt buộc, chỉ thực hiện M&A khi lâm vào tình trạng phá sản, hay chịu sự ép buộc từ phía NHNN. Điều này một phần do nhận thức của các NHTM Việt Nam về M&A chưa thực sâu sắc, chưa xem xét M&A như một yếu tố tất yếu khách quan nên được nghiên cứu, phù hợp với mục tiêu kinh doanh, phát triển của ngân hàng.

Tốc độ tăng lợi nhuận chậm

Thứ nhất, tốc độ tăng của lợi nhuận chậm hơn tốc độ tăng tài sản cũng như vốn chủ sở hữu. Điều này rõ ràng rằng, hiện nay các NH huy động được rất nhiều nguồn vốn lớn từ các đối tác bên ngoài, làm nguồn vốn tăng lên và hoạt động quản lý tài sản có phần hạn chế ở nhiều ngân hàng cũng như bối cảnh kinh tế gây nhiều trở ngại cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Thứ hai, áp lực cạnh tranh, sự hỗ trợ về vốn từ các đối tác khiến các ngân hàng không ngừng đầu tư, mở rộng quy mô, tiên tiến cơ sở vật chất, kĩ thuật. Vì vậy, lợi nhuận trong ngắn hạn của ngân hàng có sự tăng trưởng chậm hơn so với tốc độ tăng của tổng tài sản hay vốn chủ sở hữu.

Sự hạn chế trong định giá các ngân hàng mục tiêu

Đây đang là bài toán khó đối với nhiều thương vụ M&A tại Việt Nam hiện nay. Thiếu kĩ thuật, kinh nghiệm, và một tổ chức chuyên nghiệp đứng ra đảm nhiệm việc này khiến hoạt động M&A ngân hàng ở Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn. Trong khi phương pháp định giá phổ biến hiện nay là phương pháp định giá dựa trên tổng tài sản thì việc xác định tài sản chính xác của ngân hàng gặp nhiều trở ngại. Tài sản của ngân hàng chủ yếu nằm ở các khoản cho vay (những khoản này lại có nhiều mức độ rủi ro khác nhau). Nếu chỉ dựa vào các số liệu trên báo cáo tài chính-giá trị sổ sách, giá trị tài

sản của ngân hàng không được phản ánh chính xác. Đồng thời, có những tài sản vô 68



hình

một các t

như thương hiệu, thị phần, uy tín… thì lại càng khó có thể xác định. Mặt khác, vấn đề đang lo ngại hiện nay, đó chính là sự thiếu minh bạch trong việc báo cáo hông tin tài chính của các ngân hàng, do đó việc đánh giá bằng phương pháp này

hầu như không phản ánh được đúng giá trị ngân hàng đó. Để có được sự đánh giá chính xác về giá trị tài sản của ngân hàng theo giá trị thì lại mất khá nhiều thời gian, kinh phí cũng như công sức.

Thiếu nhân sự có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm trong thực hiện mua bán - sáp nhập ngân hàng

Chất lượng nguồn nhân lực kể cả các nhà quản trị chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao, đa dạng của ngân hàng hiện đại theo chuẩn mực quốc tế. Sự phát triển quá nóng của hệ thống ngân hàng trong thời gian qua, đặc biệt là hoạt động mua bán - sáp nhập ngân hàng Việt Nam còn rất non trẻ, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và am hiểu pháp luật về mua bán - sáp nhập của không ít cán bộ nhân viên ngân hàng còn thiếu và yếu. Công tác đào tạo về mua bán - sáp nhập chưa được coi trọng đúng mức dẫn đến rủi ro khi tác nghiệp và rủi ro đạo đức gia tăng.

Bất ổn về nhân sự

Nguồn nhân lực có chất lượng là tài sản quý giá của ngân hàng và các nhà quản trị công ty. Nhưng những xáo trộn và những bất ổn trong bản thân đội ngũ nhân sự trước, trong và sau khi sáp nhập sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Chắc chắn những vị trí trùng lặp sẽ được giản lược, đặc biệt những vị trí lãnh đạo cao nhất ở các vị trí sẽ chỉ còn 1. Việc “ra đi” của nhà quản lý trực tiếp sẽ kéo theo một ekip các cán bộ cấp trung, đôi khi có thể dẫn tới cạnh tranh nội bộ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường làm việc trong ngân hàng.

Ngoài sự xáo trộn về hệ thống nhân sự, sự khác biệt về văn hóa công ty và mâu thuẫn về mục tiêu, tầm nhìn của các Lãnh đạo cũng là những cản trở trong giao dịch sáp nhập và mua lại. Do đó, chính sách giữ người tài nên được thể hiện rõ ràng và minh bạch với các tiêu chí cụ thể trong quá trình sáp nhập, không chỉ ở các cấp quản lý mà còn ở tất cả các cấp trong doanh nghiệp.

Văn hóa không tương thích

Mỗi một ngân hàng trên thương trường đều có những đặc trưng riêng về văn hóa ngân hàng và chắc chắn không giống nhau, có thể nhận thấy hay không nhận thấy rõ ràng nhưng đều biểu hiện dưới các hình thức khác nhau như tầm nhìn, mục tiêu, giá trị cốt lõi, triết lý kinh doanh, hệ thống quản trị, truyền thống, văn hóa hội họp, giao tiếp ứng xử… để tạo ra thế mạnh cho riêng mình, đôi khi chính văn hóa ngân hàng là nhân tố chủ yếu tạo ra thành công và lợi thế cạnh tranh của ngân hàng.

Xảy ra mâu thuẫn về quyền lợi giữa các nhóm cổ đông

69

Một số thương vụ M&A trong giai đoạn này thường không mang tính chất tự nguyện và do NHNN chỉ đạo mặc dù mục đích là giúp đỡ các ngân hàng khó khăn tránh khỏi tình trạng phá sản. Nhưng thực tiễn cho thấy có những mâu thuẫn giữa quyền lợi và nghĩa vụ các nhóm cổ đông ngân hàng sáp nhập và bị sáp nhập. Chính sự không hòa hợp này gây ra những bất hòa trong quá trình thực hiện M&A, làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh sau này không suôn sẻ và thuận lợi, thậm chí thua lỗ… Nếu không cân bằng quyền lợi và nghĩa vụ các bên dễ dẫn đến một vụ M&A thất bại.


70


Xem tất cả 99 trang.

Ngày đăng: 18/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí