dụng và có thể bị các nhân viên dưới quyền lợi dụng kinh doanh sai lệch định hướng chung của tổ chức tín dụng hoặc kinh doanh thiếu hiệu quả mà không thể được chấn chỉnh kịp thời.
- Mô hình ngân hàng đa năng một phần
Mô hình này là sự kết hợp của hai mô hình ở trên, theo đó các ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm phải lập công ty con độc lập, hoạt động tách rời. Mô hình này được áp dụng ở một số nước như Anh, Canada và Úc…
Đặc điểm của mô hình này là kinh doanh chứng khoán và kinh doanh tín dụng được tách ra độc lập trong hạch toán kinh doanh. Nghĩa là các CTCK có tư cách pháp nhân riêng và chịu trách nhiệm bằng vốn riêng của mình.
Mô hình này có ưu điểm là:
+ Hoạt động của CTCK không ảnh hưởng gì đến hoạt động của ngân hàng hay tổ chức tài chính là công ty mẹ, do đó không gây rủi ro cho các ngân hàng hay tổ chức tài chính là công ty mẹ.
+ Nó thích hợp với các nền kinh tế đang phát triển: Do TTCK tại các nước này mới phát triển, tiềm lực về vốn, kiến thức cũng như kinh nghiệm của các tổ chức trung gian trên TTCK còn thấp, rất khó khăn cho một tổ chức mới ra đời hoạt động. Cho phép các ngân hàng đứng ra thành lập công ty con tham gia kinh doanh chứng khoán sẽ tận dụng được thế mạnh về vốn, chuyên môn và kinh nghiệm tổ chức hoạt động của công ty mẹ, do đó tính khả thi sẽ cao hơn nhiều. Ví dụ như ở Việt Nam, ban đầu các CTCK hầu hết là công ty con của các ngân hàng thương mại. Những công ty này nhờ vào sự hoạt động lâu năm của công ty mẹ trên thị trường tài chính nên có thị trường, có sự am hiểu sâu sắc các công ty phát hành và niêm yết chứng khoán trên TTCK. Mặt
Có thể bạn quan tâm!
- Mô hình và hoạt động của các công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay - 1
- Mô hình và hoạt động của các công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay - 2
- Vai Trò Của Công Ty Chứng Khoán Đối Với Thị Trường Chứng Khoán
- Yêu Cầu Về Điều Kiện Cơ Sở Vật Chất Kỹ Thuật Và Trình Độ Nghề Nghiệp Của Cán Bộ Và Nhân Viên Các Công Ty Chứng Khoán
- Các Công Ty Chứng Khoán Không Ngừng Tăng Về Số Lượng Và Quy Mô Hoạt Động
Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.
khác, do trình độ quản lý của các nền kinh tế đang phát triển còn thấp, nên sử dụng mô hình này an toàn hơn và có khả năng thực hiện hơn.
Nhược điểm của mô hình này là:
+ Quy mô của CTCK thường nhỏ, bị lệ thuộc vào vốn của công ty mẹ cấp cho. Hội đồng quản trị của CTCK thường là người của công ty mẹ, do đó nó cũng bị lệ thuộc vào chiến lược kinh doanh chung của công ty mẹ.
Ví dụ: Khi công ty mẹ muốn mở rộng thị trường tín dụng thì nó sẽ làm cho thị trường phát hành chứng khoán bị thu hẹp lại, do các doanh nghiệp thay vì phát hành chứng khoán để huy động vốn trên TTCK thì họ lại đi vay ngân hàng để thoả mãn nhu cầu về vốn. Khi ngân hàng ra sức thu hút tiền gửi tiết kiệm thì tiền được đầu tư vào TTCK sẽ giảm đi và ngược lại.
+ Nó không có quyền tự huy động vốn để kinh doanh, không hoạt động tín dụng và bị lệ thuộc.
Hình thức pháp lý của công ty chứng khoán
Trên thế giới có ba loại hình tổ chức công ty chứng khoán cơ bản:
- Công ty hợp danh
Đây là loại hình công ty có từ 2 chủ sở hữu trở lên. Thành viên tham gia vào quá trình đưa ra quyết định, quản lý được gọi là thành viên hợp danh. Các thành viên hợp danh đều phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình về các khoản nợ của công ty. Ngược lại, thành viên không tham gia vào điều hành công ty được gọi thành viên góp vốn. Họ chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình với những khoản nợ của công ty.
Công ty hợp danh không được phép phát hành bất cứ một loại chứng khoán nào, việc thay đổi chủ sở hữu khó khăn, do vậy quy mô công ty thường
nhỏ. Bên cạnh đó, trách nhiệm của các thành viên hợp danh - những người điều hành công ty- quá lớn nên ít tính mạo hiểm khi kinh doanh. Do vậy, hình thức này hiện nay ít được áp dụng trên thế giới đặc biệt là với các CTCK.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn
Các thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ phải chịu trách nhiệm với các khoản nợ của công ty hữu hạn trong phần vốn góp của mình. Do vậy loại hình công ty này an toàn hơn với các chủ sở hữu, do đó có thể kinh doanh những lĩnh vực nhiều rủi ro hơn. Mặt khác việc huy động vốn cũng đơn giản và linh hoạt hơn, đội ngũ quản lý cũng không bị bó hẹp trong một số thành viên như công ty hợp danh.
Tuy nhiên, công ty trách nhiệm hữu hạn không được phép phát hành cổ phiếu, số vốn góp chỉ giới hạn trong khả năng của các thành viên và việc chuyển đổi quyền sở hữu vẫn phức tạp. Do vậy, hình thức này hiện nay thường chỉ áp dụng cho CTCK có thành viên là tổ chức.
- Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập với các chủ sở hữu là các cổ đông. Đại hội cổ đông có quyền bầu hội đồng quản trị. Hội đồng này sẽ quyết định các chính sách của công ty và chỉ định giám đốc cùng các chức vụ quản lý khác để điều hành công ty theo các sách lược kinh doanh đã đề ra.
Các ưu điểm của công ty cổ phần
+ Đây là loại hình công ty tồn tại liên tục, không phụ thuộc vào việc thay đổi cổ đông.
+ Giống như công ty trách nhiệm hữu hạn, rủi ro mà chủ sở hữu của công ty phải chịu được hạn chế ở mức vốn góp. Nếu công ty thua lỗ và phá sản, cổ đông chỉ bị thiệt hại ở mức vốn đã đầu tư vào công ty.
+ Quyền sở hữu được chuyển đổi dễ dàng, thông qua việc mua bán cổ phiếu. Công ty có thể phát hành cổ phiếu để huy động thêm vốn sở hữu hoặc phát hành trái phiếu để vay vốn trên thị trường.
+ Ngoài ra đối với các CTCK, nếu tổ chức theo hình thức công ty cổ phần và được niêm yết tại sở giao dịch thì họ đã được quảng cáo với các nhà đầu tư chứng khoán miễn phí. Bởi khi đó, các thông tin về hình thức tổ chức quản lý, chế độ báo cáo và hoạt động của công ty bắt buộc phải công khai với các nhà đầu tư. Do vậy các khách hàng tin tưởng và thường ưa chuộng CTCK là công ty cổ phần hơn.
Do những ưu điểm trên đây, ngày nay các CTCK chủ yếu đều được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần. Thậm chí nhiều nước (như Hàn Quốc) còn quy định bắt buộc CTCK phải là công ty cổ phần.
3. Các nghiệp vụ của công ty chứng khoán
Nghiệp vụ môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo đó, CTCK đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại SGDCK hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình. Thông qua hoạt động môi giới, CTCK sẽ chuyển đến khách hàng các sản phẩm dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư bán chứng khoán với nhà đầu tư mua chứng khoán, giúp khách hàng có được
những quyết định đầu tư tỉnh táo, khắc phục tâm lý “sợ hãi và tham lam” khi đầu tư.
Xuất phát từ yêu cầu trên, nghề môi giới đòi hỏi phải có những phẩm chất, tư cách đạo đức, kỹ năng mẫn cán trong công việc và với thái độ công tâm, cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất. Nhà môi giới không được xúi giục khách hàng mua, bán chứng khoán để kiếm hoa hồng, mà nên đưa ra những lời khuyên hợp lý để hạn chế đến mức thấp nhất về thiệt hại cho khách hàng.
Nghiệp vụ tự doanh
Tự doanh là việc CTCK tự tiến hành các giao dịch mua, bán chứng khoán cho chính mình. Hoạt động tự doanh của CTCK được thực hiện thông qua cơ chế giao dịch tại trung tâm giao dịch tập trung (SGDCK hoặc TTGDCK) hoặc thị trường OTC. Tại một số thị trường vận hành theo cơ chế khớp giá (quote driven) hoạt động tự doanh của CTCK được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường. Lúc này, CTCK đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường, nắm giữ một số lượng chứng khoán nhất định của một số loại chứng khoán và thực hiện mua bán chứng khoán với các khách hàng để hưởng chênh lệch giá.
Mục đích của hoạt động tự doanh là nhằm thu lợi nhuận cho chính công ty thông qua hành vi mua, bán chứng khoán với khách hàng. Nghiệp vụ này hoạt động song hành với nghiệp vụ môi giới, vừa phục vụ lệnh giao dịch cho khách hàng, đồng thời cũng phục vụ cho chính mình, vì vậy trong quá trình hoạt động có thể dẫn đến xung đột lợi ích giữa thực hiện giao dịch cho khách hàng và cho bản thân công ty. Do đó, luật pháp của các nước đều yêu cầu tách biệt rõ ràng giữa các nghiệp vụ môi giới và tự doanh, CTCK phải ưu
tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của mình. Thậm chí luật pháp ở một số nước còn quy định có 2 loại hình CTCK là công ty môi giới chứng khoán chỉ làm chức năng môi giới và CTCK có chức năng tự doanh.
Khác với nghiệp vụ môi giới, CTCK chỉ làm trung gian thực hiện lệnh của khách hàng để hưởng hoa hồng, trong hoạt động tự doanh, CTCK kinh doanh bằng chính nguồn vốn của công ty. Vì vậy, CTCK đòi hỏi phải có nguồn vốn rất lớn và đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn, khả năng phân tích và đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý, đặc biệt trong trường hợp đóng vai trò là các nhà tạo lập thị trường.
Yêu cầu đối với công ty chứng khoán :
• Tách biệt quản lý: Các CTCK phải có sự tách biệt giữa nghiệp vụ tự doanh và nghiệp vụ môi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt động. Sự tách biệt này bao gồm tách biệt về yếu tố con người, quy trình nghiệp vụ, vốn và tài sản của khách hàng và công ty.
• Ưu tiên khách hàng: CTCK phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh. Điều đó có nghĩa là lệnh giao dịch của khách hàng phải được xử lý trước lệnh tự doanh của công ty. Nguyên tắc này đảm bảo sự công bằng cho khách hàng trong quá trình giao dịch chứng khoán. Do có tính đặc thù về khả năng tiếp cận thông tin và chủ động trên thị trường nên các CTCK có thể sẽ dự đoán trước được diễn biến của thị trường và sẽ mua hoặc bán tranh của khách hàng nếu không có nguyên tắc trên.
• Góp phần bình ổn thị trường: Các CTCK hoạt động tự doanh nhằm góp phần bình ổn giá cả thị trường. Trong trường hợp này, hoạt động tự doanh được tiến hành bắt buộc theo luật định. Luật các nước đều quy định các
CTCK phải dành một tỷ lệ % nhất định các giao dịch của mình (ở Mỹ là 60%) cho hoạt động bình ổn thị trường. Theo đó, các CTCK có nghĩa vụ mua vào khi giá chứng khoán bị giảm và bán ra khi giá chứng khoán lên nhằm giữ giá chứng khoán ổn định.
• Hoạt động tạo thị trường: khi được phát hành, các chứng khoán mới chưa có thị trường giao dịch. Để tạo thị trường cho các chứng khoán này, các CTCK thực hiện tự doanh thông qua việc mua và bán chứng khoán, tạo tính thanh khoản trên thị trường cấp hai. Trên những TTCK phát triển, các nhà tạo lập thị trường sử dụng nghiệp vụ mua bán chứng khoán trên thị trường OTC để tạo thị trường. Theo đó, họ liên tục có những báo giá để mua hoặc bán chứng khoán với các nhà kinh doanh chứng khoán khác. Như vậy, họ sẽ duy trì một thị trường liên tục đối với chứng khoán mà họ kinh doanh.
Các hình thức giao dịch trong hoạt động tự doanh:
- Giao dịch gián tiếp: CTCK đặt các lệnh mua và bán chứng khoán trên Sở giao dịch, lệnh của họ có thể thực hiện với bất kỳ khách hàng nào không được xác định trước.
- Giao dịch trực tiếp: Là giao dịch tay đôi giữa 2 CTCK hay giữa CTCK với một khách hàng thông qua thương lượng. Đối tượng của các giao dịch trực tiếp là các loại chứng khoán đăng ký giao dịch ở thị trường OTC.
Ngiệp vụ bảo lãnh phát hành
Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành là việc CTCK có chức năng bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Trên TTCK, tổ chức bảo lãnh phát hành không chỉ có CTCK mà còn bao gồm các định chế tài chính khác như ngân
hàng đầu tư, nhưng thông thường việc CTCK nhận bảo lãnh phát hành thường kiêm luôn việc phân phối chứng khoán, còn các ngân hàng đầu tư thường đứng ra nhận bảo lãnh phát hành (hoặc thành lập tổ hợp bảo lãnh phát hành) sau đó chuyển phân phối chứng khoán cho các CTCK tự doanh hoặc các thành viên khác.
Tổ chức bảo lãnh được hưởng phí bảo lãnh hoặc một tỷ lệ hoa hồng nhất định trên số tiền thu được.
Việc bảo lãnh phát hành thường thực hiện theo một trong các phương thức sau:
- Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: là phương thức bảo lãnh trong đó tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua toàn bộ số chứng khoán phát hành cho dù có phân phối được hết chứng khoán hay không.
- Bảo lãnh với cố gắng cao nhất: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh thoả thuận làm đại lý cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ cố gắng hết sức để bán chứng khoán ra thị trường, nhưng nếu không phân phối hết sẽ trả lại cho tổ chức phát hành phần còn lại mà không phải chịu bất cứ hình phạt nào.
- Bảo lãnh theo phương thức tất cả hoặc không: Trong phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán một số lượng chứng khoán nhất định, nếu không phân phối được hết sẽ huỷ toàn bộ đợt phát hành. Tổ chức phát hành phải trả lại tiền cho các nhà đầu tư đã mua chứng khoán.
- Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu – tối đa: là phương thức trung gian giữa phương thức bảo lãnh với cố gắng cao nhất và phương thức bảo lãnh bán tất cả hoặc không. Theo phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh được tự do chào bán chứng khoán đến mức tối đa quy