đó đưa ra các chương trình mục tiêu thích hợp hướng tới các đối tượng chính sách cần vốn với sự đa dạng hóa về thời hạn và lãi suất cho vay.
Phẩm chất và năng lực của cán bộ, nhân viên ngân hàng.
Phẩm chất và năng lực của cán bộ, nhân viên ngân hàng tác động rất lớn đến chất lượng hoạt động tín dụng. Nguồn nhân lực có chất lượng thể hiện ở nhiều khía cạnh về kinh nghiệm, trình độ chuyên môn, sức khỏe, tính nhiệt huyết và đạo đức của cán bộ. Nói cách khác, đạo đức của cán bộ tín dụng là một nhân tố mấu chốt tạo nên sự thành công của công tác quản lý tín dụng.
Về NHCSXH, đối tượng phục vụ chính là người nghèo và các đối tượng chính sách. Nhìn chung đây thường là những đối tượng yếu thế trong xã hội, có tâm lý rất tự ti cho nên việc tạo sự gần gũi, thân thiện giữa nhân viên ngân hàng và khách hàng là rất quan trọng. Điều này sẽ giúp họ xóa đi mặc cảm tự ti, tạo sự gắn bó giữa khách hàng với ngân hàng và làm cho họ giữ chữ tín với ngân hàng. Riêng đối với hoạt động cho vay các đối tượng chính sách, cán bộ của ngân hàng còn phải là những người thấu hiểu được những vất vả, khó khăn của người nghèo và các đối tượng chính sách, từ đó họ sẽ có những động lực nhất định trong quá trình mang đồng vốn ưu đãi của Chính phủ và các tổ chức, cá nhân khác tới tay những người cần được trợ giúp. Do đó, bồi dưỡng nâng cao trình độ năng lực và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng là điều rất cần thiết.
Cơ sở vật chất và công nghệ thông tin.
Cơ sở vật chất và công nghệ thông tin được hoàn thiện sẽ tạo tiền đề để ngân hàng mở rộng các loại hình dịch vụ phục vụ khách hàng. Không chỉ có vậy, điều này có giúp đơn giản hóa các thủ tục cho vay, xử lý các công việc trong nội bộ ngân hàng, từ đó tiết kiệm được chi phí cho cả ngân hàng lẫn khách hàng vay vốn là các đối tượng chính sách. Việc thực hiện đồng thời các loại hình dịch vụ sẽ cho phép ngân hàng tăng hiệu quả hoạt động, tăng uy tín đối với khách hàng. Một hệ thống công nghệ tốt kết hợp với thông tin kịp thời, chính xác có thể giảm thiểu được những rủi ro trong hoạt động ngân hàng liên quan tới vấn đề thông tin bất cân xứng khi mà nhóm đối tượng chính sách là nhóm bị hạn chế về thông tin cung cấp cho ngân hàng.
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Sở Lý Luận Về Phát Triển Hoạt Động Cho Vay Giải Quyết Việc Làm Tại Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội.
- Cho Vay Giải Quyết Việc Làm Tại Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội
- Chỉ Tiêu Đánh Giá Mức Độ Phát Triển Của Hoạt Động Cho Vay Giải Quyết Việc Làm
- Cơ Cấu Tổ Chức Của Chi Nhánh Nhcsxh Thành Phố Hà Nội
- Tình Hình Dư Nợ Theo Chương Trình Cho Vay Giai Đoạn 2018-2021
- Kết Quả Thực Hiện Hoạt Động Cho Vay Giải Quyết Việc Làm Tại Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội Chi Nhánh Hà Nội Trong Giai Đoạn 2018-2021
Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.
Thông tin còn giúp cho nhà quản lý phân tích và theo dõi được thực tiễn các chính sách tín dụng có được triển khai hiệu quả, có bảo đảm đúng với chủ trương, chính sách của Nhà nước hay không, từ đó có những điều chỉnh phù hợp hoặc có kiến nghị kịp thời tới các đơn vị chức năng có liên quan.
Nhìn chung các nhân tố về chiến lược, phẩm chất năng lực cán bộ, cơ sở vật chất và công nghệ thông tin là các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của hệ thống ngân hàng, tuy nhiên do đặc điểm chuyên biệt về đối tượng, chủ trương hoạt động, thành lập nên sự phát triển hoạt động cho vay tại NHCSXH còn bị tác động bởi:
Mối quan hệ giữa NHCSXH với chính quyền, các hội, ban, ngành đoàn thể địa phương.
Hoạt động của NHCSXH có mối quan hệ mật thiết đối với chính quyền, tổ chức CT-XH, ban, ngành địa phương. Việc cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác không thể đảm bảo tính hiệu quả nếu như không xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp và được sự hỗ trợ từ phía các cơ quan đoàn thể, các hội ban ngành và chính quyền địa phương. NHCSXH hoạt động theo cơ chế nắm bắt thông tin của từng người vay thông qua chính quyền địa phương. Vì thế, mặc dù là tự chịu trách nhiệm cho vay và quản lý các món vay nhưng chất lượng cho vay của NHCSXH phụ thuộc khá nhiều vào các tổ chức và mối quan hệ với các tổ chức nói trên. Có sự giúp đỡ của chính quyền địa phương và các tổ chức CT-XH cũng như cơ quan đoàn thể thì nguồn vốn của ngân hàng mới dễ dàng đến được tận tay người lao động vì không ai nắm được tình hình đời sống kinh tế của người dân như chính quyền địa phương nơi họ sinh sống.
1.4.2. Nhóm nhân tố khách quan
Hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác là hoạt động có tính rủi ro cao, phụ thuộc nhiều vào môi trường kinh tế, môi trường văn hóa
- xã hội, môi trường pháp lý. Đó là những nhân tố không nằm trong sự kiểm soát của ngân hàng nhưng tác động không nhỏ tới hoạt động tín dụng của NHTM nói chung và hoạt động tín dụng ưu đãi của NHCSXH nói riêng:
Hành lang pháp lý và các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Tại bất kỳ quốc gia nào, mọi hoạt động của tổ chức tài chính nói chung và hoạt động của hệ thống ngân hàng nói riêng đều chịu sự kiểm soát chặt chẽ của các chế tài pháp luật cũng như các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước. Do đó để đảm bảo an toàn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật đồng bộ. Đặc biệt khách hàng của NHCSXH phần lớn là các đối tượng chính sách, nhận thức về pháp luật bị hạn chế, các món vay cá nhân tại NHCSXH đều không phải đảm bảo tiền vay, điều này dễ gây nên những tác động tiêu cực đến hoạt động tín dụng. Vì vậy việc tạo hệ thống pháp luật hoàn thiện, đồng bộ sẽ tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động tín dụng của NHCSXH.
Các chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước là nhân tố quan trọng, thể hiện tính hợp lý, tính kịp thời, tính hiệu quả và tính đồng bộ. Để có thể bảo đảm được tính hợp lý thì những chính sách vay vốn cần phải được xây dựng, ban hành và triển khai một cách kịp thời nếu không những thay đổi trong thực tiễn sẽ khiến cho mức độ hợp lý của chính sách bị mất đi. Tính hiệu quả của hệ thống chính sách được gây dựng một phần bởi chính sách tín dụng nhưng bản thân nó cũng góp phần vào mức độ thành công của hoạt động tín dụng tại NHCSXH. Nếu các chính sách khác như giáo dục, y tế, đầu tư… cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác không có hiệu quả thì dĩ nhiên khó có thể mong đợi chính sách về cho vay sẽ phát huy được tác dụng. Để bảo đảm các chính sách phối hợp hiệu quả và mang đến tính cộng hưởng cao thì các chính sách của Chính phủ phải có tính đồng bộ cao, giúp công tác quản lý nguồn vốn NHCSXH được thuận lợi.
Do tính đặc thù của chương trình cho vay, nguồn vốn cho vay, mức cho vay, lãi suất cho vay, phương thức cho vay, thời hạn cho vay của chương trình đều do Chính phủ quyết định theo từng thời kỳ, NHCSXH chỉ là tổ chức nhận uỷ thác giải ngân thu nợ, thu lãi đến từng hộ vay. Bất kỳ sự thay đổi nào trong chính sách của Chính phủ sẽ tác động không nhỏ đến hoạt động, kết quả cho vay, lượng khách hàng vay vốn, mức vay vốn, doanh số cho vay…
Chính sách lãi suất ưu đãi thường nảy sinh một số mặt tiêu cực như: tạo cho khách hàng tâm lý ỷ lại, tính toán làm ăn không cẩn thận và kém năng động; tạo ấn tượng cho rằng chương trình nghiêng về phúc lợi hơn là cho vay, thậm chí người vay thấy không cần thiết phải trả nợ, do lãi suất ưu đãi nên người vay có thể sử dụng sai mục đích như cho vay lại hoặc gửi tiết kiệm với lãi suất cao hơn, gây tiêu cực trong cho vay, lựa chọn không đúng đối tượng vay, tranh giành vốn vay,… Tất cả điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến công tác quản lý cho vay.
Điều kiện về kinh tế, xã hội trong nước.
Khi nền kinh tế trong giai đoạn phát triển nhanh và ổn định thì mức sống của người dân sẽ có xu hướng tốt lên, đồng nghĩa với nhu cầu tiêu thụ hàng hóa càng lớn. Khi đó, nền kinh tế càng tạo ra nhiều của cải, kéo theo nhu cầu về việc làm tăng, khiến cho người dân có thêm nhiều cơ hội nghề nghiệp. Sự phát triển của nền kinh tế sẽ tác động lên hoạt động của NHCSXH ở chỗ:
Cùng với sự đi lên của nền kinh tế thì yêu cầu về vốn cho sản xuất trong đó có các đối tượng chính sách càng lớn và cấp bách vì vậy NHCSXH cần phải đáp ứng đủ và kịp thời vốn cho các hoạt động sản xuất của người dân. Sự phát triển của nền kinh tế làm cho cơ hội thoát nghèo của các hộ nghèo lớn hơn vì vậy hiệu quả và chất lượng của hoạt động tín dụng của NHCSXH sẽ được nâng cao.
Điều kiện tự nhiên.
Khách hàng vay vốn GQVL tại NHCSXH chủ yếu đầu tư vào mục đích chăn nuôi, trồng trọt, nông nghiệp, lâm nghiệp…Do đó, khi các điều kiện tự nhiên như: thiên tai, bão lụt, dịch bệnh cây trồng vật nuôi...thường xảy ra trên diện rộng sẽ gây thiệt hại lớn đối với các hộ gia đình sản xuất, nuôi trồng nhỏ lẻ, điều này sẽ ảnh hưởng tới khả năng trả nợ ngân hàng của khách hàng, ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng. Ngược lại, mưa thuận gió hòa, ít bão lũ, thiên tai, hạn hán, dịch bệnh...thì sẽ thuận lợi hơn trong việc nâng cao chất lượng tín dụng.
Trình độ dân trí, tập quán sản xuất, thói quen tiêu dùng của xã hội.
Đối với khu vực nông thôn, miền núi, địa bàn có mặt bằng dân trí chưa cao thì nhìn chung các gia đình còn thiếu kiến thức chuyên môn, thiếu tri thức khoa học kỹ
thuật công nghệ về trồng trọt, chăn nuôi...thậm chí nhiều vùng còn mang nặng tư duy bao cấp. Nếu trình độ dân trí của khách hàng bị hạn chế thì hiệu quả vốn vay của NHCSXH rất thấp, thậm chí người nghèo lại nghèo thêm do mất vốn, tích tụ thêm các khoản nợ ngân hàng. Nhận thức của khách hàng về quyền và nghĩa vụ đối với các khoản vay cũng rất quan trọng bởi nếu người nghèo coi các khoản vay từ NHCSXH như một khoản trợ cấp thì tất yếu họ không quan tâm đến việc trả nợ ngân hàng và vốn vay có thể bị thất thoát, sử dụng sai mục đích, do đó sẽ ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tình hình dân số.
Mức tăng trưởng và cơ cấu dân số là một trong những yếu tố tác động mạnh đến tỷ lệ lao động, thất nghiệp do đó cũng ảnh hưởng đến yêu cầu giải quyết việc làm và cho vay giải quyết việc làm. Hiện nay, Việt Nam là nước có dân số trẻ, nguồn lao động dồi dào nhưng tỷ lệ lao động có trình độ cao còn thấp, tỷ lệ thất nghiệp thì ngày một tăng không chỉ ở nông thôn mà còn ở các thành phố lớn. Chính vì vậy, khi xây dựng chiến lược cho vay giải quyết việc làm, Ngân hàng chính sách xã hội phải đánh giá một cách toàn diện về sức ảnh hưởng của nhân tố này. Nó không chỉ quyết định đến đối tượng cụ thể được hưởng ưu đãi về tài trợ tín dụng của Nhà nước mà còn quyết định sự phân bổ nguồn vốn thế nào cho hợp lý với nhu cầu từng địa bàn, từng khu vực.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chương 1 đã trình bày tổng hợp những lý luận chung nhất về việc làm, giải quyết việc làm, sự cần thiết của hỗ trợ tạo việc làm, những vấn đề cơ bản về hoạt động cho vay giải quyết việc làm tại ngân hàng Chính sách xã hội. Trong đó, tác giả đưa ra khái niệm, đặc điểm, từ đó phân tích các nhân tố ảnh hưởng và các tiêu chí đánh giá hoạt động cho vay giải quyết việc làm. Những nội dung trình bày trong chương 1 là cơ sở để triển khai các nội dung phân tích và đánh giá thực trạng, sự phát triển của hoạt động cho vay chính sách nhằm giải quyết việc làm tại NHCSXH Chi nhánh Hà Nội trong chương 2 và đề xuất các giải pháp trong chương 3.
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG CHO VAY GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TẠI NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI CHI NHÁNH HÀ NỘI
2.1. Khái quát về Ngân hàng chính sách xã hội Chi nhánh Hà Nội
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng chính sách xã hội Chi nhánh Hà Nội
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010 đã nêu rõ “Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng. Phân biệt chức năng của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Thương mại Nhà nước, chức năng cho vay của Ngân hàng Chính sách với chức năng kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng Thương mại”. Do đó, việc thành lập một loại hình Ngân hàng Chính sách vì mục tiêu xóa đói giảm nghèo, bằng nguồn lực của Nhà nước và của toàn xã hội cung cấp vốn cho vay, trợ giúp đối với những đối tượng chính sách tại các vùng nghèo, xã nghèo và nhóm dân cư nghèo, là một tất yếu khách quan cho tiến trình phát triển và hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Ngân hàng Chính sách xã hội được thành lập theo Quyết định số 131/2002/QĐ- TTg ngày 04/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ nhằm tách tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng Phục vụ người nghèo. Đây là sự nỗ lực rất lớn của Chính phủ Việt Nam trong việc cơ cấu lại hệ thống ngân hàng nhằm thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia và cam kết trước cộng đồng quốc tế về xóa đói giảm nghèo. Hoạt động của NHCSXH không vì mục đích lợi nhuận. Sự ra đời của NHCSXH có vai trò rất quan trọng, là cầu nối đưa chính sách tín dụng ưu đãi của Chính phủ đến với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác, tạo điều kiện cho người nghèo tiếp cận được các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, hộ nghèo và các đối tượng chính sách có điều kiện gần gũi với các cơ quan công quyền ở địa phương, giúp các cơ quan này gần dân và hiểu dân hơn.
NHCSXH là một pháp nhân độc lập, có con dấu, tài sản và hệ thống giao dịch từ trung ương đến địa phương, vốn điều lệ cấp năm 2003 là 5.000 tỷ đồng, đến 31/12/2021 đạt 18.270,5 tỷ đồng, thời hạn hoạt động là 99 năm. NHCSXH có bộ máy
quản lý và điều hành thống nhất trong phạm vi cả nước, được Nhà Nước cấp, giao vốn và đảm bảo khả năng thanh toán, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0%, không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, được miễn thuế và các khoản phải nộp ngân sách Nhà Nước.
Trên cơ sở đó, Chi nhánh NHCSXH thành phố Hà Nội và Chi nhánh NHCSXH tỉnh Hà Tây (tiền thân của Chi nhánh NHCSXH thành phố Hà Nội hiện nay) được thành lập theo các quyết định số 19/QĐ - HĐQT và số 22/QĐ - HĐQT ngày 14/01/2003 của Chủ tịch Hội đồng quản trị NHCSXH, chính thức khai trương đi vào hoạt động từ ngày 11/4/2003, tiếp nhận bàn giao nguồn vốn và dư nợ cho vay 334 tỷ đồng, trong đó: Cho vay Giải quyết việc làm từ Kho bạc Nhà nước là 92 tỷ đồng, 237 tỷ đồng cho vay hộ nghèo từ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, cho vay học sinh sinh viên có hoàn cảnh khó khăn là 5 tỷ đồng từ Ngân hàng Công thương. Trên cơ sở hợp nhất của thành phố Hà Nội cũ và tỉnh Hà Tây, ngày 02/01/2009 theo Quyết định 01/QĐ-HĐQT của Chủ tịch Hội đồng quản trị (HĐQT) NHCSXH hợp nhất hai chi nhánh NHCSXH thành phố và Hà Nội và chi nhánh tỉnh Hà Tây thành lập ra Chi nhánh NHCSXH thành phố Hà Nội hiện nay; thực hiện cho vay các chương trình chính sách trên địa bàn thành phố Hà Nội; có trụ sở chính tại địa chỉ Số 27, đường Nguyễn Cơ Thạch, Phường Mỹ Đình II, quận Nam Từ Niêm, Thành phố Hà Nội.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức và mạng lưới hoạt động của Ngân hàng chính sách xã hội Chi nhánh Hà Nội
Mô hình tổ chức của NHCSXH Chi nhánh Hà Nội do bốn bộ phận hợp thành, huy động sức mạnh tổng hợp của cả bộ máy chính trị - xã hội và nhân dân, chung sức thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, góp phần vào công cuộc xây dựng nông thôn mới, đảm bảo an sinh xã hội, bao gồm: Bộ máy quản trị là Ban Đại diện HĐQT các cấp, bộ máy điều hành tác nghiệp là Hội sở Chi nhánh NHCSXH Thành phố và 28 Phòng giao dịch NHCSXH quận, huyện, thị xã trên địa bàn Thành phố, thể hiện tại sơ đồ dưới đây: