Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Vào Du Lịch Các Địa Phương Vùng Đbscl Giai Đoạn 2005 - 2014


chuyển giữa một số nước, thêm vào đó Việt Nam được xem là điểm đến an toàn vì vậy đã góp phần thu hút du khách từ các nước đến Việt Nam.

Theo khảo sát năm 2013 của công ty nghiên cứu thị trường Grant Thornton về chỉ số năng động toàn cầu cho thấy các chỉ số về kinh tế của Việt Nam đứng thứ 27 trong tổng số 60 quốc gia tham gia vào cuộc khảo sát. Theo phân tích thêm cho thấy Việt Nam đứng thứ 7 thế giới về hạng mục tiềm năng phát triển kinh tế và xếp thứ tư trong nhóm các ngành kinh tế mới nổi khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (APEC). Trong thời gian gần đây, tình hình kinh tế, chính trị, an ninh thế giới có nhiều bất ổn, kinh tế Việt Nam cũng gặp phải những khó khăn nhất định. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn được đánh giá là nước có tốc độ phát triển kinh tế cao trong khu vực. Cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch nhanh sang nền kinh tế thị trường, cơ sở hạ tầng ngày càng phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và theo đó là nhu cầu du lịch của người dân cũng ngày một tăng cao.

Theo Chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn đến 2030, Đồng bằng sông Cửu Long được xác định là một vùng nằm trong trong 7 vùng du lịch đặc trưng của cả nước. Hội nhập kinh tế quốc tế đã mang lại cho ngành du lịch ĐBSCL những thuận lợi rất lớn, nhưng đồng thời cũng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn thách thức, điều đó đòi hỏi sự nổ lực cao của Đảng, Nhà nước, ngành du lịch và của nhân dân toàn Vùng với những giải pháp thiết thực để đưa ngành du lịch của vùng ngày càng phát triển, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ mới hiện nay.

Để thúc đẩy hội nhập quốc tế trong thời gian qua Nhà nước ta đã có nhiều thay đổi trong chính sách phát triển, nhiều văn bản pháp luật liên quan đến du lịch được xây dựng mới hoặc sửa đổi như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Cư trú, Luật Di sản văn hóa, Luật Đa dạng sinh học,…Thêm vào đó, chính sách miễn thị thực đối với một số quốc gia, cụ thể như miễn thị thực cho 5 nước Tây Âu theo Nghị quyết số 46/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngày 18/6/2015 đã tác động tích cực, làm tăng lượng khách Tây Âu đến Việt Nam cũng là cơ hội cho du lịch các vùng trên cả nước trong đó có ĐBSCL.


Luật Du lịch có hiệu lực từ năm 2006 đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho phát triển du lịch của Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng. Chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập sâu rộng của Việt Nam đã, đang và sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch phát triển. Nếu Việt Nam được coi là nước có nền kinh tế mới nổi thì có thể xem ĐBSCL là vùng đất mới của Việt Nam trong việc khai thác tiềm năng về du lịch. Chính vì vậy, ĐBSCL luôn được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành và lãnh đạo của các địa phương trong Vùng để phát triển du lịch trong quá trình hội nhập quốc tế.

Sự kiện đáng chú ý trong thời gian qua là Việt Nam đã tham gia vào Hợp tác kinh tế Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (GMS) gồm Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc đã tạo nhiều cơ hội cho vùng ĐBSCL do đây là lãnh thổ ưu tiên trong các chương trình hợp tác.

Trong thời gian qua, hội nhập quốc tế đã góp phần thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào vùng ĐBSCL, trong đó có đầu tư cho phát triển du lịch. Trong giai đoạn 2006 - 2010 tổng số dự án FDI vào vùng ĐBSCL là 358 dự án với tổng vốn điều lệ là 3.265.864.847 (USD), trong đó Long An dẫn đầu với 226 dự án với vốn điều lệ là 909.513.060 (USD), đứng thứ hai là Tiền Giang với 26 dự án, vốn điều lệ 136.190.000 (USD). Các tỉnh có số dự án đầu tư thấp nhất là Cà Mau, Hậu Giang, Bạc Liêu, Sóc Trăng với 05 dự án (Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư các tỉnh ĐBSCL, 2011).

Bảng 4.9. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào du lịch các địa phương vùng ĐBSCL giai đoạn 2005 - 2014

TT

Địa phương

Số dự án

Vốn đăng ký (USD)

A.

Miền Bắc

64

1.384.101.748

B.

Miền Trung

56

627.885.542

C.

Miền Nam

68

2.299.425.205

1

Đồng bằng sông Cửu Long

5

21.880.000


An Giang

1

7,000,000


Bến Tre

1

3,000,000

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 219 trang tài liệu này.

Phát triển du lịch Đồng Bằng Sông Cửu Long trong hội nhập quốc tế - 16


TT

Địa phương

Số dự án

Vốn đăng ký (USD)


Cần Thơ

1

5,230,000


Kiên Giang

2

6,650,000

2

Khu vực khác

63

2.277.545.205


Cả nước

188

4.311.412.495

Nguồn: Vụ Kế hoạch Tài chính - Tổng cục Du lịch, 2015

Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào du lịch khu vực miền Nam chiếm gần 53.3% trong tổng nguồn vốn đầu tư của cả nước tuy nhiên ĐBSCL chỉ chiếm 0.51% so với cả nước và 0.95% so với khu vực, tập trung ở 4 tỉnh An Giang, Bến Tre, Cần Thơ và Kiên Giang, qua đây cho thấy nguồn vốn đầu tư nước ngoài cho phát triển du lịch ở vùng là rất thấp.

Hội nhập quốc tế cũng góp phần phát triển cơ sở hạ tầng và thúc đẩy việc quảng bá du lịch Vùng ĐBSCL ra nước ngoài, các tuyến điểm du lịch được đầu tư nhằm tạo sức hút đối với du khách quốc tế. Công tác quảng bá du lịch vùng ĐBSCL ngày càng được chú trọng, quảng bá và xúc tiến du lịch của Vùng được diễn ra dưới nhiều hình thức như thông qua báo chí, mạng internet, các chương trình hội thảo, liên hoan du lịch,…góp phần đưa hình ảnh du lịch của Vùng ĐBSCL đến với bạn bè các nước trong khu vực và trên thế giới.

ĐBSCL có nhiều đảo, quần đảo như Thổ Chu, Phú Quốc, Hòn Khoai là vùng đặc quyền kinh tế giáp biển Đông và vịnh Thái Lan. Đồng bằng sông Cửu Long nằm trong khu vực có đường giao thông hàng hải và hàng không quốc tế giữa Nam Á và Đông Nam Á cũng như với châu Đại Dương và các quần đảo khác trong Thái Bình Dương. Vị trí này rất quan trọng, giúp cho đồng bằng sông Cửu Long trong các hoạt động giao lưu quốc tế. ĐBSCL nằm trong hành lang kinh tế ven biển trong Tiểu vùng sông Mekong đi từ Myanmar qua Thái Lan, Campuchia đến Việt Nam. Với vị trí địa kinh tế hết sức đặc biệt đó, đồng bằng sông Cửu Long có thể triển khai kế hoạch phát triển du lịch, kinh tế biển đảo, đẩy mạnh hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực tiểu vùng sông Mekong, các nước khu vực vịnh Thái Lan và dựa vào


sức mạnh kinh tế của vùng và sự hợp tác với thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh thuộc Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

Quá trình hội nhập quốc tế đã góp phần gia tăng thị phần du lịch của vùng ĐBSCL, mở rộng thị trường, khai thác những lợi thế về du lịch của Vùng và phát triển những loại hình du lịch mới. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã có ảnh hưởng không nhỏ đến ngành du lịch cả nước nói chung và ngành du lịch vùng ĐBSCL nói riêng, ngoài những cơ hội có được, thì hội nhập quốc tế cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với du lịch của vùng ĐBSCL như cạnh tranh quyết liệt, làm tăng sự phụ thuộc vào nước ngoài, khó khăn trong bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của Vùng, tác động tiêu cực đến môi trường, sinh thái… từ đó đòi hỏi các cấp, các ngành cần có sự quan tâm sâu sát để đưa ra những giải pháp kịp thời, phù hợp nhằm khai thác những lợi thế để phát triển du lịch vùng ĐBSCL đạt hiệu quả, đồng thời đáp ứng được yêu cầu của hội nhập quốc tế.

Bên cạnh những mặt tích cực, hội nhập quốc tế cũng mang đến không ít thử thách cho phát triển du lịch Việt Nam nói chung và cho vùng ĐBSCL nói riêng.

Từ năm 2007 đến nay ngành du lịch chịu ảnh hưởng mạnh do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Riêng đối vơi Việt Nam Do trình độ phát triển kinh tế chưa cao, đời sống người dân vẫn còn thấp vì vậy ngành du lịch Việt Nam nói chung và du lịch ĐBSCL nói riêng cũng bị suy giảm, đồng thời còn phải chịu sự cạnh tranh khốc liệt với du lịch của các nước trong khu vực như: Trung Quốc, Singapore, Malaysia, Thái Lan kể cả Lào và Campuchia.

Trong xu thế hội nhập của du lịch Việt Nam với khu vực và thế giới thì vấn đề liên kết trong phát triển du lịch giữ một tầm quan trọng đặc biệt. Trong định nghĩa về du lịch có đề cập đến du lịch là hoạt động của con người di chuyển từ nơi này đến nơi khác (ngoài nơi cư trú) với mục đích tham quan, giải trí, tìm hiểu văn hóa, nghỉ dưỡng,…trong một khoảng thời gian nhất định, qua đó cho thấy hoạt động du lịch vốn không có ranh giới và không thể gói gọn trong một khu vực địa lí nhất định, chính vì vậy việc liên kết du lịch giữa các địa phương trong vùng và liên kết giữa một vùng với các vùng lân cận là hết sức cần thiết.


Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của chương trình hợp tác Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS), điều này đã mang lại nhiều thuận lợi cho Việt Nam trong phát triển du lịch mà đặc biệt là Vùng ĐBSCL – nơi hạ nguồn sông Mêkông đổ ra biển, bên cạnh đó trong xu thế hội nhập quốc tế ĐBSCL cũng đang có chính sách mở rộng thị trường phát triển du lịch đến các quốc gia trong khu vực cũng như tham gia vào các tổ chức du lịch quốc tế và đang thu hút được sự chú ý của các nước phát triển, đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức cho phát triển du lịch ĐBSCL.

4.2.6 Thực trạng đảm bảo môi trường cho du lịch vùng ĐBSCL

Là phần châu thổ sông Mêkong rộng lớn và trù phú ĐBSCL với ba nhóm đất chính là đất phèn, đất phù sa và đất mặn chiếm 90% tổng diện tích. Hiện nay, môi trường đất vùng ĐBSCL đang có dấu hiệu suy thoái và ô nhiễm, nguyên nhân phần lớn chủ yếu là do hoạt động sản xuất của người dân trong Vùng, đồng thời sự phát triển du lịch tại một số địa phương trong vùng còn manh mún, tự phát cũng dẫn đến những tác động tiêu cực cho môi trường, làm phá vỡ sự cân bằng của môi trường, sinh thái trong Vùng.

Quá trình xâm nhập mặn, chua hóa, phèn hóa trong những năn gần đây đang diễn ra mạnh mẽ, ảnh hưởng đời sống kinh tế và xã hội của người dân trong vùng đặc biệt là các tỉnh ven biển, vào mùa mưa còn có hiện tượng sạc lở đất, các chất thải sinh hoạt, chất thải từ các khu công nghiệp không được xử lí đúng cách, nước thải từ các làng nghề du lịch,…cũng làm cho đất bị ô nhiễm.

ĐBSCL với hệ thống sông ngòi, kênh rạch dày đặc với nguồn tài nguyên nước phong phú cả nước mặt và nước ngầm nhưng trong thời gian vừa qua đang phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm do nguồn nước thải xả vào hệ thống sông, rạch từ các hộ gia đình, nước thải từ các khu công nghiệp, các làng nghề, từ hoạt động trồng trọt, chế biến thủy hải sản,…nguồn nước mặt ô nhiễm làm ảnh hưởng đến chất lượng của nguồn nước ngầm.

Một trong những vấn đề có tác động lớn, không chỉ vùng ĐBSCL mà cả nước và thế giới đang phải đối mặt đó là hiện tượng hiệu ứng nhà kính và mực nước biển dâng. Đây không còn là vấn đề ở quy mô vùng mà đòi hỏi cần có sự tham gia của


nhà nước cũng như có sự liên kết với các quốc gia khác trong tiểu vùng sông Mêkong.

Môi trường đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất và đời sống của người dân vùng ĐBSCL. Môi trường ô nhiễm ảnh hưởng rất lớn đến hệ sinh thái từ đó trực tiếp ảnh hưởng đến các hoạt động du lịch của vùng. Chính vì vậy để phát triển du lịch ĐBSCL một cách bền vững và hiệu quả cần hướng tới việc bảo vệ môi trường, đây là vấn đề quan trọng và cấp bách được đặt ra cho toàn vùng.

4.2.7 Thực trạng an ninh, an toàn trong phát triển du lịch vùng ĐBSCL

Đồng bằng sông Cửu Long có vị trí hết sức quan trọng về quốc phòng – an ninh (QP – AN) đối với vùng Tây Nam bộ và cả nước. Nhất là ở tuyến biên giới và biển đảo giáp biên với Vương quốc Campuchia, vùng ĐBSCL giáp với bốn tỉnh, thành của nước bạn là Kampot, Cô Công, TP. Kép, TP. Kom Pong-Xom. Ngoài ra, đường biên giới trên biển vùng ĐBSCL cũng tiếp giáp với một số nước trong khu vực Đông Nam Á (có một phần chồng lấn với một số nước như: Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Campuchia). Vì vậy, đẩy mạnh phát triển du lịch của Vùng gắn với bảo đảm QP - AN là vấn đề vừa cơ bản lâu dài, vừa cấp bách trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay.

Trong những năm qua, các địa phương ở ĐBSCL đã nhận thức đúng đắn về quan điểm phát triển bền vững kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo QP - AN của Đảng và Nhà nước nói chung và lĩnh vực phát triển du lịch gắn với bảo đảm QP - AN nói riêng trên địa bàn. Cùng với việc phát triển các điểm du lịch tại Đất mũi Cà Mau, du lịch biển ở Kiên Giang, Trà Vinh, Bạc Liêu, Tiền Giang, Bến Tre, du lịch sinh thái sông nước miệt vườn ở Đồng Tháp, Cần Thơ, Hậu Giang; du lịch di tích văn hóa ở An Giang và du lịch biển đảo Phú Quốc đã góp phần làm thay đổi nhanh chóng cơ cấu du lịch, dịch vụ trong vùng, các địa phương trong Vùng đã chú trọng hơn việc phát triển du lịch gắn với bảo đảm QP - AN của Vùng và của Quốc gia. Việc quy hoạch phát triển du lịch của Vùng đảm bảo có sự phối hợp giữa các địa phương trong Vùng với các lực lượng vũ trang của Trung ương và địa phương. Đặc biệt là những địa bàn trọng điểm về QP - AN luôn chú trọng sự kết hợp này trong phát triển du lịch.


Ví dụ như Phú Quốc là một điển hình các công trình cơ sở hạ tầng phục vụ kinh tế, phát triển du lịch đều tính đến yếu tố đảm bảo về QP – AN. Ngoài ra, trong quá trình quy hoạch phát triển kinh tế và du lịch vùng ĐBSCL, đã có sự phối hợp nhất định với các quốc gia có tiếp giáp vùng ĐBSCL, đặc biệt là nước bạn Campuchia, thông qua những hoạt động như: giao lưu, trao đổi, phối hợp trong chống tội phạm, chống ô nhiễm môi trường, cứu hộ, cứu nạn…từng bước xây dựng lòng tin, tạo nên sự ràng buộc về quyền lợi và nghĩa vụ trong bảo vệ chủ quyền quyền biển đảo vừa phục vụ cho phát triển kinh tế và du lịch.

Tuy nhiên, quá trình phát triển du lịch gắn với bảo đảm QP - AN ở vùng ĐBSCL thời gian qua cũng còn nhiều vấn đề bất cập cần được tiếp tục giải quyết, như: công tác tuyên truyền cho phát triển du lịch còn hạn chế, việc quan tâm đầu tư cho thực hiện nhiệm vụ phát triển du lịch gắn với bảo đảm QP - AN chưa thật sự bền vững, chưa xứng với tiềm năng và nguồn lợi của du lịch sinh thái, biển đảo, miệt vườn…do vùng đất này đem lại, công tác đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch có nơi chưa theo hướng lưỡng dụng, công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chưa theo kịp yêu cầu phát triển du lịch gắn với bảo đảm QP - AN ở địa phương, việc phối hợp triển khai “Đề án An ninh du lịch” giữa các cấp, các ngành, các địa phương trong Vùng chưa đồng bộ, nhiều đối tượng nước ngoài lợi dụng danh nghĩa du lịch để thực hiện các hoạt động thu thập tình báo, móc nối xây dựng cơ sở, hoạt động tôn giáo trái pháp luật…gây bất ổn. Tình trạng một số du khách nước ngoài đi du lịch vi phạm quy chế quản lý tạm trú và các vi phạm pháp luật khác diễn ra khá phổ biến trong Vùng…Vì vậy, trong thời gian tới cần phải có những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn và giải quyết tình trạng trên, tạo sự gắn kết giữa phát triển du lịch với bảo đảm QP - AN vùng ĐBSCL.

Ngoài việc đảm bảo QP – AN, trong phát triển du lịch vùng ĐBSCL thời gian qua vẫn còn một số hiện tượng tiêu cực khác như: ăn xin, bán hàng rong không đảm bảo vệ sinh, bán hàng lừa gạt, chèo kéo du khách, an toàn thực phẩm không đảm bảo, nạn trộm cắp, hoạt động của một số băng, nhóm tội phạm trong Vùng,… cũng làm đe doạ sự an toàn, an ninh của du khách làm ảnh hưởng đến sự phát triển của


du lịch của Vùng ĐBSCL.

4.2.8 Thực trạng quản lý nhà nước cho phát triển lịch vùng ĐBSCL

Từ năm 1996, đã có quy hoạch tổng thể phát triển du lịch ĐBSCL gắn với phát triển du lịch TP HCM và Tiểu vùng sông MêKông mở rộng. Các địa phương trong Vùng, đặc biệt là những địa phương trọng điểm các chính sách quy hoạch phát triển đã được triển khai thực hiện, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế nhất định do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan.

Công tác quản lý Nhà nước đối với phát triển du lịch chậm được đổi mới. Luật du lịch và các luật, pháp lệnh liên quan, hệ thống văn bản pháp quy hướng dẫn thi hành còn thiếu đồng bộ và chưa huy động được các nguồn lực cho phát triển du lịch. Nhiều chính sách còn chồng chéo, trói chân lẫn nhau. Việc quản lý nhà nước về du lịch vẫn còn những hạn chế, bất cập cụ thể như trong các lĩnh vực: vệ sinh môi trường, đảm bảo chất lượng sản phẩm, ứng dụng những công nghệ mới trong hoạt động du lịch, đảm bảo vệ sinh thực phẩm và trong tuyên truyền quảng bá sản phẩm du lịch... Bộ máy quản lý nhà nước về du lịch còn cồng kềnh, thiếu tính chuyên nghiệp chưa được hiện đại hóa, so với tốc độ phát triển ngày càng nhanh của ngành du lịch vùng ĐBSCL.

Phương thức tổ chức và quản lý ngành du lịch vùng ĐBSCL còn nhiều bất hợp lý, cơ chế phối hợp giữa các ban ngành liên quan đến du lịch chưa rõ ràng, còn có sự chồng chéo. Các doanh nhiệp kinh doanh du lịch bị quản lý bởi 4, 5 đầu mối, từ đó gây khó khăn cho doanh nghiệp. Thiếu một cơ chế phối hợp và hợp tác giữa các doanh nghiệp trong ngành du lịch để có một tiếng nói chung, phát huy được sức mạnh của ngành du lịch ĐBSCL.

Hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật chuyên ngành chưa được hình thành, hợp chuẩn khu vực và quốc tế; thủ tục hành chính còn rườm rà, đặc biệt là thủ tục thị thực xuất nhập cảnh và quy trình quản lý chất lượng dịch vụ còn nhiều yếu kém.

Bộ máy của ngành có đổi mới nhưng chưa thực sự phát huy hiệu lực, hiệu quả; quản lý liên ngành, liên vùng rất yếu “mạnh ai nấy làm”. Công tác quản lý và thực hiện quy hoạch du lịch còn nhiều bất cập. Công tác quản lý đảm bảo phát triển bền

Xem tất cả 219 trang.

Ngày đăng: 20/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí