Các Chỉ Tiêu Đánh Giá Phát Triển Dịch Vụ Phi Tín Dụng



khách hàng ở các Ngân hàng khác hoặc khách hàng chưa sử dụng dịch vụ Ngân hàng là một cách truyền thông cho Ngân hàng, lôi kéo thêm khách hàng mới.

Dịch vụ thẻ là dịch vụ mới phát triển ở Việt Nam dựa trên công nghệ Ngân hàng hiện đại. Các sản phẩm của dịch vụ thẻ do các Ngân hàng cung cấp tựu chung có: thẻ ghi nợ nội địa, thẻ tín dụng quốc tế, thẻ ghi nợ quốc tế, thẻ hỗn hợp (vừa là thẻ ghi nợ vừa là thẻ tín dụng quốc tế). Tuy các NHTM đưa ra mẫu mã, thẻ khác nhau, tên gọi khác nhau song đều có các chức năng của thẻ như cho phép rút tiền, thanh toán tiền dịch vụ, vấn tin,... tại các máy ATM, các điểm chấp nhận thể trên cả nước và cả ở nước ngoài.

Sản phẩm dịch vụ Ngân hàng điện tử là một loại hình dịch vụ tiên tiến, hiện đại. Cho đến nay, sau khi đã thực hiện hiện đại hóa Ngân hàng BIDV, Viettinbank, Vietcombank,... hoặc mới hiện đại hóa một phần như VBARD, các NHTM đang cung cấp đến khách hàng các dịch vụ Ngân hàng điện tử như dịch vụ nhắn tin qua điện thoại di động, dịch vụ vấn tin trên Internet, dịch vụ Ngân hàng tại nhà Homebanking, SMS banking, vntopup.

c) Tăng cầu về sản phẩm dịch vụ phi tín dụng

Cầu dịch vụ phi tín dụng là nhu cầu của khách hàng về các sản phẩm dịch vụ phi tín dụng. Cầu về dịch vụ phi tín dụng phụ thuộc vào những tiện ích, những tính năng mà dịch vụ phi tín dụng đem lại. Cầu về dịch vụ phi tín dụng không giống như cầu về hàng hóa thiết yếu trong cuộc sống, do vậy nhà cung cấp dịch vụ phải làm cho khách hàng cảm thấy dịch vụ phi tín dụng đáp ứng những nhu cầu căn bản, có ảnh hưởng tới cuộc sống của khách hàng, có như vậy mới tăng cầu về dịch vụ phi tín dụng.

Cầu về dịch vụ phi tín dụng còn phụ thuộc vào thu nhập của khách hàng sử dụng dịch vụ. Khách hàng có thu nhập từ trung bình khá trở lên, nguồn thu nhập ổn định có nhu cầu cao hơn về các sản phẩm dịch vụ phi tín dụng, khách hàng có xu hướng kiểm soát thu nhập, khẳng định bản thân thì các nhu cầu về dịch vụ phi tín dụng càng cao hơn do dịch vụ phi tín dụng đòi hỏi khách hàng sử dụng phải có trình



Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.

độ khoa học công nghệ nhất định, sử dụng các dịch vụ Ngân hàng đa dạng và thành thạo.

Một nhân tố khiến cho cầu về dịch vụ phi tín dụng tăng thêm đó chính là giá cả của dịch vụ phi tín dụng hay mức phí dịch vụ mà khách hàng phải trả. Do đó để tăng cầu về dịch vụ phi tín dụng và kết hợp nhiều yếu tố từ phía Ngân hàng và có cả những yếu tố khách quan từ môi trường, từ khách hàng có ảnh hưởng đến cầu dịch vụ phi tín dụng. Để tăng cầu về thị trường dịch vụ phi tín dụng cần chú trọng phát triển nền khách hàng, gia tăng số lượng khách hàng mở tài khoản, phân nhóm khách hàng để có những ứng xử cho phù hợp nhằm khuyến khích khách hàng sử dụng dịch vụ và thông qua khách hàng tác động đến các khách hàng tiềm năng.

Phát triển dịch vụ phi tín dụng của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam - 5

d) Ổn định giá cả trên thị trường dịch vụ phi tín dụng

Giá cả trên thị trường dịch vụ phi tín dụng chính là mức phí, mức hoa hồng mà người sử dụng dịch vụ phải trả cho các Ngân hàng. Cũng như giá cả của các hàng hóa, dịch vụ khác phí dịch vụ phi tín dụng được xác định dựa trên cơ sở giá thị trường. Giá của dịch vụ phi tín dụng hình thành trên thị trường trên cơ sở giá giá thị trường tức là mức hao phí lao động trung bình của các NHTM. Giá cả dịch vụ phi tín dụng thay đổi phụ thuộc vào hao phí lao động xã hội cần thiết tạo ra dịch vụ. Giá dịch vụ phi tín dụng còn phụ thuộc và quan hệ cung cầu, cạnh tranh trên thị trường dịch vụ phi tín dụng. Trong điều kiện cạnh tranh, các Ngân hàng có xu hướng hạ thấp giá cả dịch vụ phi tín dụng, tuy nhiên về nguyên tắc để đảm bảo khả năng sinh lời, các Ngân hàng đưa ra mức giá nhỏ hơn hoặc bằng chi phí bỏ ra để thực hiện dịch vụ. Như vậy giá cả dịch vụ phi tín dụng hình thành, vận động và tuần hoàn theo yêu cầu của qui luật giá trị.

1.3.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá phát triển dịch vụ phi tín dụng

a) Tăng trưởng về loại hình dịch vụ, số lượng và doanh thu

Một NHTM kinh doanh đa dạng các nghiệp vụ, dịch vụ sẽ phân tán, giảm nhiều rủi ro và nâng cao được lợi nhuận. Bởi vì, nếu theo nghiệp vụ truyền thống và cổ điển, Ngân hàng thu lợi nhuận chủ yếu từ hoạt động tín dụng; nhưng tín dụng lại chứa đựng nhiều rủi ro và bất trắc, do Ngân hàng ở vào thế bị động khi cấp tín dụng



cho khách hàng. Thực tế đã có quá nhiều NHTM trên thế giới bị phá sản vì đầu tư

mà không thu hồi được nợ.

Khi thực hiện đa dạng hoá loại hình dịch vụ NHTM sẽ sử dụng triệt để, có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ cán bộ của mỗi Ngân hàng; do vậy, giảm chi phí quản lý, chi phí hoạt động, tăng lợi nhuận tối đa cho Ngân hàng.

Các nghiệp vụ của NHTM đều có mối quan hệ với nhau, tác động qua lại với nhau tạo thành một thể thống nhất và thúc đẩy nhau cùng phát triển. Huy động vốn tạo nguồn cho việc thực hiện nghiệp vụ tín dụng và phát triển dịch vụ; nhưng ngược lại thu hút khách hàng với những nguồn tiền nhàn rỗi của họ. Nền kinh tế thị trường càng phát triển, các doanh nghiệp càng đa dạng hoá kinh doanh và nhu cầu về các dịch vụ Ngân hàng, tài chính ngay càng phong phú đa dạng điều đó đòi hỏi sự phục vụ của Ngân hàng cũng phải đa dạng theo. Chỉ khi thực hiện đa dạng hoá loại hình dịch vụ Ngân hàng mới cung cấp được nhiều loại dịch vụ Ngân hàng một cách nhanh chóng, linh hoạt, có chất lượng cho khách hàng và nền kinh tế. Hơn nữa, việc phục vụ khách hàng theo phương thức “trọn gói” bao giờ cũng ưu việt hơn phương thức đơn lẻ.

Trong điều kiện có rất nhiều Ngân hàng với các hình thức sở hữu khác nhau, nhiều Ngân hàng liên doanh với nước ngoài và các tổ chức tài chính – tín dụng cùng hoạt động, đã tạo sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các Ngân hàng. Ngân hàng, TCTD nào muốn tồn tại, muốn phát triển, đạt được lợi nhuận cao và tạo vị thế của mình trong cạnh tranh đều phải thay đổi, cải tiến hoạt động sao cho đáp ứng kịp thời, thuận tiện các nhu cầu đòi hỏi phong phú, đa dạng khách hàng để thu hút được nhiều khách hàng hơn. Muốn làm được điều này, thì cách tốt nhất phải đa dạng hoá loại hình dịch vụ từ đó tăng doanh thu dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ phi tín dụng. Những Ngân hàng hoạt động đơn điệu dễ bị phá sản, hoặc tự đóng cửa do không dễ dàng chuyển hướng kinh doanh hoặc giữ cho hoạt động Ngân hàng đó luôn ổn định.

b) Tỷ trọng của các loại hình dịch vụ phi tín dụng trong toàn bộ doanh thu của Ngân hàng



Các NHTM hiện đại hoá hệ thống của mình nhằm cung cấp những dịch vụ Ngân hàng tốt nhất trong đó có các dịch vụ phi tín dụng. Từng bước các NHTM nâng cao tỷ trọng thu ròng dịch vụ phi tín dụng trong toàn bộ lợi nhuận của mình. Thu từ dịch vụ phi tín dụng là nguồn lợi nhuận an toàn, là mục tiêu mà hầu hết các Ngân hàng đều nhắm tới. Tỷ trọng của các loại hình dịch vụ phi tín dụng của Ngân hàng được tính bằng doanh thu dịch vụ phi tín dụng trên tổng doanh thu của Ngân hàng.

c) Thị phần của dịch vụ phi tín dụng của Ngân hàng so với toàn ngành

Thị phần dịch vụ phi tín dụng của Ngân hàng là phần thị trường sử dụng dịch vụ phi tín dụng mà Ngân hàng đã chiếm lĩnh được. Thực chất nó là phần phân chia thị trường của Ngân hàng đối với các Ngân hàng khác trong ngành. Người ta phân thành :

+ Phần phân chia thị trường tuyệt đối: bằng tỷ lệ phần trăm doanh thu từ dịch vụ phi tín dụng của Ngân hàng so với doanh thu của dịch vụ cùng loại của tất cả các Ngân hàng khác trên thị trường.

+ Phần phân chia thị trường tương đối: là tỉ lệ giữa phần phân chia thị trường tuyệt đối của Ngân hàng so với phần phân chia thị trường tuyệt đối của đối thủ cạnh tranh mạnh nhất trong ngành.

1.3.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến các chỉ tiêu phát triển dịch vụ phi tín

dụng


a) Các nhân tố thuộc về môi trường vĩ mô

Các nhân tố kinh tế vĩ mô có tác động đến hoạt động của NHTM như tốc độ

tăng trưởng kinh tế, các chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước, dân số, văn hoá

xã hội, khoa học công nghệ và điều kiện tự nhiên:

Tốc độ tăng trưởng kinh tế:

Khi nền kinh tế suy thoái, thu nhập giảm sút, lạm phát và thất nghiệp tăng cao, môi trường kinh doanh không thuận lợi cũng làm ảnh hưởng tới các kế hoạch kinh doanh của Ngân hàng. Mặt khác khi nền kinh tế hưng thịnh, hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển sẽ là cơ hội tốt để thực hiện các hoạt động kinh doanh Ngân hàng.



Xu hướng sử dụng dịch vụ Ngân hàng ngày càng nhiều: Với 90 triệu dân với khoảng 22% mở tài khoản tại Ngân hàng nhưng tốc độ phát triển dịch vụ Ngân hàng trong vòng 3 năm qua đạt trên 30%/năm . Các loại hình doanh nghiệp, sản phẩm dịch vụ hỗ trợ cho việc tiêu dùng của người dân gia tăng. Các Ngân hàng phối hợp với các nhà cung cấp, thương mại, các hãng viễn thông.. đẩy mạnh cung cấp các dịch vụ phi tín dụng.

Giá cả và chất lượng dịch vụ quyết định lớn tới lượng khách hàng sử dụng dịch vụ. Lạm phát cao gây khó khăn cho hoạt động Ngân hàng vì khó kiểm soát mức giá cả và lượng tiền.

Các chính sách tài khóa:

Cơ chế, chính sách của nhà nước có ảnh hưởng lớn đến việc phát triển thị trường dịch vụ phi tín dụng. Tùy thuộc điều kiện kinh tế đất nước trong từng thời kỳ mà nhà nước có những chính sách khác nhau. Các chính sách của nhà nước có thể thúc đẩy thị trường dịch vụ phi tín dụng, cũng có thể kìm hãm sự phát triển của thị trường dịch vụ phi tín dụng.

Khi nhà nước đưa ra các chính sách thắt chặt tiền tệ, kiềm chế lạm phát, các hoạt động Ngân hàng bị ảnh hưởng nhiều, từ hoạt động dịch vụ tín dụng đến hoạt động dịch vụ phi tín dụng, người dân sẽ giảm chi tiêu, mà dịch vụ phi tín dụng cũng là hàng hóa vì vậy thị trường dịch vụ phi tín dụng cũng bị thu hẹp.

Khi nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ mở để thúc đẩy phát triển kinh tế, hoạt động Ngân hàng nhờ đó cũng được phát triển mạnh, hoạt động tín dụng phát triển kéo theo dịch vụ phi tín dụng cũng có điều kiện phát triển, thị trường dịch vụ phi tín dụng trở nên sôi động hơn.

Bên cạnh các chính sách kinh tế vĩ mô có tác động đến phát triển thị trường dịch vụ phi tín dụng, các cơ chế chính sách của nhà nước cũng tạo điều kiện cho việc phát triển thị trường dịch vụ phi tín dụng như chính sách thuế, chính sách trả lương qua tài khoản, chứng từ điện tử,... có tác động không nhỏ đến thị trường dịch vụ phi tín dụng.

Môi trường dân số và văn hóa:



Những xu thế thay đổi về nhân khẩu học được nghiên cứu bao gồm tổng dân số, tỷ lệ tăng dân số, những thay đổi về cấu trúc dân số, xu thế di chuyển dân cư... là nguồn số liệu quan trọng. Từ những số liệu đó, Ngân hàng xác định được thị trường tiềm năng của dịch vụ phi tín dụng và năng lực của Ngân hàng mình so với các đối thủ cạnh tranh để chiếm lĩnh từng phân đoạn thị trường.

Xu hướng đô thị hóa đang làm tăng dân số tại các thành phố lớn một cách nhanh chóng với tốc độ 1% mỗi năm. Đến năm 2011, dân số tại đô thị chiếm tỷ trọng 27,9%. Tỷ lệ người dân trong độ tuổi lao động khá lớn, chiếm 52% dân số. Hiện có trên 70% các hộ gia đình ở thành thị Việt Nam có mức thu nhập bình quân hàng năm trên 60 triệu đồng.Tốc độ tăng dân số và thu nhập cao kéo theo nhu cầu về tiêu dùng tăng cao.

Hành vi của khách hàng và cả đối thủ cạnh tranh của Ngân hàng bị chi phối khá nhiều bởi các yếu tố văn hóa. Hành vi tiêu dùng cũng bị chi phối bởi các yếu tố văn hóa, do đó nó cũng ảnh hưởng đến nhu cầu về các dịch vụ của Ngân hàng. Chính vì thế, trình độ văn hóa là một trong những yếu tố được các nhà kinh doanh Ngân hàng nghiên cứu kĩ lưỡng trong chiến lược kinh doanh và áp dụng các biện pháp marketing hiện nay.

Môi trường khoa học công nghệ:

Sự ra đời và phát triển của công nghệ hiện đại đã làm thay đổi bộ mặt của ngành Ngân hàng. Công nghệ mới cho phép Ngân hàng đổi mới không chỉ qui trình nghiệp vụ mà còn đổi mới cả cách thức phân phối, đặc biệt là phát triển sản phẩm dịch vụ mới như sự phát triển của mạng lưới máy tính cho phép Ngân hàng cung cấp dịch vụ Ngân hàng.

Theo xu hướng phát triển của thời đại thông tin số, các Ngân hàng ngày càng chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin vào đổi mới quy trình nghiệp vụ và cách thức phân phối. Đặc biệt là phát triển các sản phẩm dịch vụ mới, có thể kể đến các dịch vụ phi tín dụng ứng dụng nhiều kỹ thuật và công nghệ hiện đại sẽ là xu hướng phát triển hàng đầu trong thời gian tới .

Xu hướng tiêu dùng gắn với tiếp cận công nghệ: Tỷ lệ tiếp cận internet là 77



thuê bao/1.000 dân, số người sử dụng internet 20,8 triệu người chiếm 25% dân số; Số lượng thuê bao điện thoại cố định và di động là 921/1.000 người dân, chỉ xếp sau Mỹ, Singapore về tốc độ phát triển.

Điều kiện tự nhiên:

Các vùng địa lý khác nhau có những đặc điểm văn hoá khác nhau về phong tục tập quán, cách thức giao tiếp,nhu cầu về hàng hoá dịch vụ nói chung và sản phẩm dịch vụ tài chính Ngân hàng nói riêng. Chính các điều kiện đó đã hình thành các tụ điểm dân cư, trung tâm thương mại, du lịch, trung tâm sản xuất và ảnh hưởng đến việc đặt phòng giao dịch hay chi nhánh Ngân hàng. Việc Ngân hàng mở rộng mạng lưới ở những vùng dân cư có thu nhập tốt, môi trường kinh tế phát triển, dân cư văn minh là điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh nói chung và phát triển dịch vụ phi tín dụng nói riêng.

Ngoài ra. quá trình hội nhập cũng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các NHTM. Toàn cầu hoá kinh tế dẫn đến quá trình hội nhập các Ngân hàng, thực tế cho thấy toàn cầu hoá kinh tế là một phương thức thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình hội nhập của các quốc gia, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính – Ngân hàng, qua đó các NHTM đã không ngừng mở rộng quy mô hoạt động và thị phần bằng cách vươn tới những thị trường vượt ra khuôn khổ quốc gia.

Hội nhập kinh tế quốc tế đem lại nhiều cơ hội và thách thức cho nhiều ngành kinh tế của Việt nam. Đối với hoạt động Ngân hàng được đánh gía là đứng trước nhiều khó khăn thách thức hơn cả.

Mặc dù việc các NHNNg vào Việt Nam còn thực hiện theo lộ trình nhưng các Ngân hàng Việt Nam đã không ngừng làm mới mình để sẵn sàng cạnh tranh trên các thị trường dịch vụ tín dụng và dịch vụ phi tín dụng. Sự hội nhập kinh tế quốc tế có thể nói đã thúc đẩy ngành Ngân hàng Việt Nam tiến những bước đi dài hơn trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế, sẵn sàng chiếm lĩnh thị phần của mình trên các mặt hoạt động trong đó có thị trường dịch vụ phi tín dụng.

b) Các nhân tố thuộc về môi trường ngành

Chính sách của NHNN:



NHNN đóng vai trò chủ đạo trong hoạch định chiến lược và xây dựng các chính sách phát triển chung, các quyết định và thông tư của NHNN hướng dẫn thực hiện có ảnh hưởng đến các nghiệp vụ hay các hoạt động của NHTM. NHNN tạo môi trường pháp lý thông thoáng sẽ cho phép các Ngân hàng chủ động kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật quy định. Do các dịch vụ phi tín dụng rất đa dạng, nhu cầu của các khách hàng, nhóm khách hàng vào mỗi thời điểm là khác nhau, NHTM có quyền chủ động đưa ra các sản phẩm dịch vụ đáp ứng yêu cầu của khách hàng song vẫn tuân thủ các quy định của pháp luật. Tuy nhiên các NHTM vẫn phải xây dựng hồ sơ xin phép NHNN cho phép kinh doanh dịch vụ này. Ngoài ra, NHNN là trung tâm quản lý hoạt động thanh toán bù trừ vì vậy cần thiết lập các trung tâm thanh toán phù hợp, đảm bảo tốc độ thanh toán và mức phí thanh toán. NHNN là cơ quan đại diện, thay mặt chính phủ có đầy đủ các thông tin về dịch vụ Ngân hàng hiện đại, NHNN nghiên cứu và định hướng cho các NHTM trong việc phát triển dịch vụ Ngân hàng.

Đối thủ cạnh tranh:

Những hoạt động của đối thủ cạnh tranh cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của Ngân hàng, nhất là khi các Ngân hàng cùng cung cấp một sản phẩm, cùng hướng vào một đối tượng khách hàng mục tiêu trên cùng địa bàn hoạt động. Thị trường Ngân hàng càng sôi động, sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng càng trở nên gay gắt. Kết quả là Ngân hàng càng ngày càng chi nhiều tiền cho các hoạt động nghiên cứu cấu trúc thị trường và hành vi của các Ngân hàng trên thị trường, nghiên cứu hành vi cụ thể của từng đối thủ cạnh tranh (đối thủ cạnh tranh trực tiếp, đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn..) nhằm có thể chủ động đưa ra một chiến lược cạnh tranh năng động và hiệu quả.

Các đối thủ cạnh tranh với nhau sẽ theo đuổi mục tiêu giảm chi phí tới mức thấp nhất để dành được lợi thế, đồng thời tạo ra sự khác biệt hoá trong sản phẩm dịch vụ của mình. Nguồn kiến thức vượt trội về đối thủ tạo ra lợi thế cạnh tranh rất lớn và không vi phạm pháp luật. Lợi thế cạnh tranh giúp tạo ra giá trị khách hàng ưu việt so với đối thủ trên thị trường. Giá trị khách hàng được xây dựng dựa trên tương

Xem tất cả 132 trang.

Ngày đăng: 12/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí