Thứ nhất, Nhà nước cần sớm hoàn thiện khung pháp lí cho hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và phát triển dịch vụ ngân hàng nói riêng:
Nhà nước tạo môi trường pháp lý và môi trường thuận lợi tạo điều kiện cho hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và các NHTM nói riêng sớm cụ thể hoá luật cạnh tranh, có biện pháp quản lý hiệu quả thị trường chứng khoán, giảm lạm phát, sửa đổi và bổ sung một số quy định tại một số Luật. Luật các TCTD cần quy định về dịch vụ ngân hàng trên thế giới như hoạt động tín dụng cùng là một loại dịch vụ. Nghị định 65/2005/NĐCP quy định về hoạt động cho thuê tài chính, chỉ quy định một số dịch vụ, còn nhiều dịch vụ khác (cho thuê hợp vốn, mua lại tài sản của khách hàng sau đó cho thuê lại...) chưa làm được do thiếu văn bản quy định chi tiết.
Hội nhập kinh tế quốc tế, các NHTM nói chung, Vietinbank nói riêng buộc phải đẩy mạnh hiện đại hoá công nghệ ngân hàng mà trước hết trong khâu thanh toán điện tử. Do đó nhà nước cần sớm sửa đổi pháp lệnh Kế toán
Thống kê, trong đó bổ sung những qui định mới về lập chứng từ kế toán, hạch toán ghi sổ phù hợp với những dịch vụ tài chính ngân hàng thực hiện bằng công nghệ quản lí, thanh toán qua hệ thống vi tính điện toán theo tiêu chuẩn mực quốc tế, đặc biệt là các chứng từ của ngân hàng điện tử, chữ kí điện tử.
Công nhận giá trị pháp lí của chữ kí điện tử, giá trị chứng cứ của văn bản điện tử ở các hợp đồng kinh tế, chào hàng, chấp nhận và xác nhận mua hàng…
Thứ hai, sớm hình thành thị trường vốn trong phạm vi toàn quốc, tạo điều kiện tập trung mọi nguồn vốn vào cơ hội đầu cơ sinh lời. Đẩy mạnh hơn nữa tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, giải toả vốn đóng băng tại các doanh nghiệp nhà nước, tạo bước đi cần thiết để thị trường vốn sớm ra đời và phát huy tác dụng.
Thứ ba, đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước để ứng dụng công nghệ hiện đại vào phát triển kinh tế nói chung, hoạt động kinh doanh ngân hàng nói riêng, từ đó tạo điều kiện về cơ sở vật chất cho việc phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại của các NHTM.
Thứ tư, có giải pháp thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển lành mạnh, cải tiến thủ tục xử lý phát mại tài sản bảo đảm trong quá trình xử lý nợ cho ngân hàng.
Có thể bạn quan tâm!
- Nhóm Giải Pháp Về Phát Triển Sản Phẩm Dịch Vụ Thỏa Mãn Tốt Nhất Nhu Cầu Ngày Càng Cao Của Khách Hàng
- Phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam - 21
- Đổi Mới Cơ Cấu Cung Cấp Dịch Vụ Theo Hướng Tăng Tỷ Trọng Các Dịch Vụ Phi Tín Dụng, Phát Triển Mạnh Dịch Vụ Ngân Hàng Trực Tuyến
- Phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam - 24
- Phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam - 25
Xem toàn bộ 206 trang tài liệu này.
Thứ năm, hoàn thiện chính sách thuế theo hướng thúc đẩy phát triển dịch vụ ngân hàng. Chính sách thuế cần sớm xây dựng dựa trên quan điểm
kích thích sản xuất kinh doanh trong nước thu hút mạnh mẽ
đầu tư
nước
ngoài, khuyến khích xuất khẩu, tăng tích luỹ để tái đầu tư mở rộng nói chung, đối với phát triển dịch vụ ngân hàng nói riêng.
Thứ sáu, cần có những chính sách để đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, phát triển bưu chính viễn thông và Internet để tạo điều kiện cho NHTM thực hiện đa dạng hoá nghiệp vụ. Sự phát triển của Bưu chính viễn thông và Internet là tiền đề, là cơ sở để NHTM hiện đại hoá công nghệ và phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Nhưng hiện nay các NHTM đang phải thuê bao đường truyền dẫn với mức phí cao, lại chưa thật nhanh, chưa chuẩn xác và chưa an toàn, trong ngân hàng đã dành nguồn vốn lớn cho đầu tư đổi mới công nghệ và phát triển dịch vụ mới. Mặt khác phí thuê bao và sử dụng Internet của Việt Nam hiện nay còn quá đắt, không khuyến khích các doanh nghiệp và cá nhân sử dụng Internet. Tình trạng này khiến cho TMĐT và dịch vụ ngân hàng qua Internet ở Việt Nam trở nên xa vời. Do vậy, phát triển Bưu chính viễn thông và Internet không chỉ là vấn đề của riêng ngành Bưu chính viễn thông mà còn là một nội dung quan trọng cần được Nhà nước đặc biệt quan tâm trong chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam.
Thứ bảy, cần có chính sách khuyến khích và hỗ trợ các NHTM hiện đại hoá công nghệ ngân hàng nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới của nền kinh tế đất
nước: (i) Ưu tiên tối đa cho việc phát triển các dịch vụ ngân hàng điện tử. Nhà nước cần phải giảm thuế nhập khẩu đối với các máy móc nhập khẩu của NHTM nhằm hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Đồng thời giảm thuế các hoạt động dịch vụ đối với các NHTM, tạo điều kiện cho các ngân hàng tích luỹ tài chính đầu tư phát triển dịch vụ, có điều kiện giảm chi phí hoạt động, phát triển dịch vụ. (ii) Chính phủ cần cho phép các NHTM được hưởng chính sách ưu đãi đầu tư trong nước như các doanh nghiệp khác, trong lĩnh vực đầu tư hiện đại hoá kĩ thuật công nghệ để phát triển các dịch vụ ngân hàng quan trọng và thiết yếu. Ngoài việc dùng vốn tự có để đầu tư, cho phép các NHTM vay vốn dài hạn như các doanh nghiệp khác.
4.3.2. Đối với Ngân hàng nhà nước
NHNN cần bổ sung, hoàn thiện các chính sách cơ chế thúc đẩy phát triển dịch vụ ngân hàng, cụ thể là: (i) Cần sớm trình Chính phủ sửa đổi Luật các Tổ chức tín dụng để hệ thống ngân hàng Việt Nam thống nhất quan niệm về dịch vụ ngân hàng từ đó thống nhất trong quản lý, thống kê về dịch vụ ngân hàng. Tránh tình trạng như hiện nay đa phần các ngân hàng hiểu dịch vụ ngân hàng theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm dịch vụ trung gian và ngoại bảng. Sửa đổi Luật các Tổ chức tín dụng theo hướng dịch vụ được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả các dịch vụ tài sản nợ và tài sản có như tác giả trình bày tại phần khái niệm dịch vụ ngân hàng. (ii) Trên cơ sở các bộ luật của Nhà nước về ngân hàng, cần xây dựng hoàn chỉnh đồng bộ hệ thống các văn bản hướng dẫn (dưới luật) về hoạt động ngân hàng để các NHTM thực hiện đảm bảo không trái luật, nhưng phải tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động trong điều kiện cụ thể của nước ta phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế. NHNN
cần hoàn thiện các văn bản pháp quy về
dịch vụ
thẻ, với các nguyên tắc,
chuẩn mực thống nhất trong dịch vụ phát hành và thanh toán thẻ, đặc biệt là ban hành các quy định điều chỉnh các hành vi liên quan đến tranh chấp, rủi ro, để làm cơ sở xử lý khi xảy ra.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường mở, đa dạng các công cụ, chứng chỉ có giá giao dịch tại thị trường mở.
+ Tính năng động, cũng như tâm lý, thời gian của các NHTM chưa theo kịp xu hướng phát triển của thị trường mở. Dẫn tới thị trường kém sôi động.
+ Số lượng các loại giấy tờ có giá tham gia thị trường mở còn quá ít. Hiện nay chủ yếu mới chỉ giao dịch chứng chỉ có giá trên thị trường mở chủ yếu là: trái phiếu Chính phủ nên chưa là cơ sở thúc đẩy phát triển dịch vụ tín dụng, chiết khấu thương phiếu và đầu tư của các NHTM.
Trong thời gian tới, NHNN cần mở rộng thêm các công cụ, chứng từ có giá tham gia thị trường mở như: trái phiếu công ty, trái phiếu công trình…
NHNN cần có định hướng phát triển công nghệ thông tin cho ngành ngân hàng, trên cơ sở đó các ngân hàng xây dựng hệ thống công nghệ thông tin, phát triển các dịch vụ tiện ích.
+ NHNN có chính sách khuyến khích, hỗ trợ các NHTM tự đầu tư, hợp tác liên kết và vay vốn đầu tư cơ sở hạ tầng, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Tích hợp hệ thống CNTT giữa các NHTM, nhằm tăng cường khả năng liên kết của các NHTM trong nước.
+ NHNN cần thực hiện sớm hơn hiện đại hoá công nghệ ngân hàng,
tập trung đầu tư vào công tác thanh toán không dùng tiền mặt, nâng cao
chất lượng các phương tiện và công cụ thanh toán để mọi khoản vốn chu chuyển trong nền kinh tế nhanh chóng hơn, đồng thời hạn chế tối đa lượng tiền mặt trong lưu thông.
Tổ
chức và hoàn thiện thị
trường tiền tệ
mở rộng thị
trường phát
triển dịch vụ cho các NHTM, theo hướng:
+ Thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn, là công cụ để NHNN điều hoà khả năng thanh toán giữa các NHTM
+ Thị trường tiền tệ đáp ứng nhu cầu vốn cho các NHTM đồng thời giúp các NHTM đầu tư vốn.
+ Thị trường tiền tệ bao gồm: Thị trường tín dụng, thị trường nội tệ liên Ngân hàng, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường tín phiếu kho bạc.
NHNN giải quyết tốt các mối quan hệ trên thị trường tiền tệ sẽ giúp NHNN quản lí và điều hành được lượng tiền mặt, quản lí được hạn mức tín dụng đối với các NHTM, đồng thời tạo điều kiện cho các NHTM có được thị trường để phát triển dịch vụ đầu tư.
Xây dựng hệ thống thông tin tài chính hiện đại, đảm bảo cho hệ
thống ngân hàng hoạt động an toàn, hiệu quả, dễ giám sát, đồng thời lập một chương trình về hội nhập quốc tế về tài chính trên mạng internet để cập nhật thông tin tài chính, tiền tệ thế giới.
Tăng cường các quan hệ hợp tác quốc tế nhằm khai thông các hoạt động ngân hàng ra nước ngoài và tận dụng được nguồn vốn, công nghệ từ các nước và các tổ chức quốc tế, trao đổi thông tin về lĩnh vực ngân hàng, đặc
biệt về
đào tạo, phổ
biến kiến thức và những kinh nghiệm hội nhập cho
những cán bộ của NHNN và một số NHTM.
KẾT LUẬN
Phát triển dịch vụ
NHBL là sự
gia tăng về
số lượng các dịch vụ
cung cấp, mạng lưới hoạt động và các tiện ích của sản phẩm, chất lượng của từng loại hình dịch vụ nhằm thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của các các chủ thể trong xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường và HNKTQT đang diễn ra ngày càng sâu rộng trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, thì việc phát triển dịch
vụ NHBL có ý nghĩa vô cùng quan trọng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, gia tăng quá trình luân chuyển vốn, đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH
đất nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại: (i) Phát triển
dịch vụ NHBL làm đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của các chủ thể
trong xã hội, thúc đẩy nền kinh tế
tăng trưởng,
phát triển bền vững. Mặt khác, khi các dịch vụ NHBL phát triển tốt sẽ kéo
theo các loại hình dịch vụ
khác phát triển theo, tạo nên hệ
thống các sản
phẩm dịch vụ đa dạng hỗ trợ tích cực cho nhau, tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, giải quyết việc làm và nâng cao đời sống của người dân. (ii) Phát triển dịch vụ NHBL, gia tăng quá trình luân chuyển vốn, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế và đảm bảo chủ động HNKTQT. Đứng trên giác độ kinh tế xã hội, việc phát triển dịch vụ NHBL có tác dụng đẩy nhanh quá trình luân chuyển tiền tệ, tận dụng tiềm năng to lớn về vốn để phát triển kinh tế. (iii) Phát triển dịch vụ NHBL góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế vùng và các thành phần kinh tế theo hướng tiến bộ và hiện đại. Phát triển dịch vụ NHBL sẽ góp phần tích cực trong việc khơi thông nguồn vốn trong xã hội phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế, tạo việc làm và nâng cao đời sống người dân. Bên cạnh đó, phát triển dịch vụ NHBL góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
hiện đại, hình thành các ngành kinh tế mới có giá trị gia tăng cao, các khu vực, vùng kinh tế phát triển năng động, hiệu quả, bền vững. (iv) Phát triển dịch vụ NHBL góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển,
tạo nên tính năng động, hiệu quả trong phát triển loại hình doanh nghiệp
này. Các dịch vụ NHBL phát triển sẽ tạo điều kiện tốt để các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các hộ kinh doanh cá thể có điều kiện tiếp cần với nguồn vốn tín dụng và các dịch vụ NHBL tiên tiến khác, đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh, tiếp cận với khoa học công nghệ hiện đại, thực hiện công nghiệp
hóa hiện đại hóa, góp phần quan trọng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế
theo
hướng hiện đại; nâng cao tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp đối với nền kinh tế.
Là một NHTM cổ phần hàng đầu Việt Nam, Vietinbank đã chủ động và tích cực cung ứng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế, nhằm đáp ứng tốt các nhu cầu của các chủ thể trong xã hội. Nắm bắt thời cơ về phát triển các sản phẩm dịch vụ NHBL, Vietinbank đang từng bước khẳng định vị trí, tên tuổi trên thị trường trong nước và quốc tế; các sản phẩm dịch vụ ngân hàng nói chung và dịch vụ NHBL nói riêng đã đáp ứng tốt cho nhu cầu về các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Các sản phẩm dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng, nhiều tiện ích, kết hợp hài hòa giữa các sản phẩm truyền
thống là thế
mạnh của Vietinbank và các sản phẩm dịch vụ
NHBL mới,
hiện đại, hình thành các gói sản phẩm dịch vụ trọng gói, đa dạng hóa các
kênh phân phối, tích cực cải tiến phong cách phục vụ văn minh hiện đại
mang đậm bản sắc văn hóa Vietinbank, nhằm đáp ứng tốt nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Năm 2012, Vietinbank đã vinh dự đón nhận danh hiệu ngân hàng bán lẻ tiêu biểu Việt Nam do VietNam Banking Awards bình chọn và trao giải.
Bên cạnh đó, Vietinbank cũng đang gặp phải không ít những khó khăn và thách thức trong quá trình cạnh tranh đang diễn ra ngày càng gay gắt cả
trong và ngoài nước; năng lực cạnh tranh và khả năng tài chính của
Vietinbank còn yếu so với các NHTM khác trong khu vực; hệ thống CNTT còn lạc hậu; số lượng cán bộ đông, nhưng hoạt động chưa thực sự chuyên nghiệp; các sản phẩm dịch vụ NHBL còn hạn chế, chất lượng chưa cao; thu nhập chủ yếu trong hoạt động kinh doanh vẫn từ tín dụng, là lĩnh vực hàm chứa nhiều rủi ro. Nguyên nhân của những khó khăn nêu trên là do trình độ phát triển của nền kinh tế nước ta còn thấp, thu nhập của người dân còn cách xa so với các nước phát triển trong khu vực; hệ thống luật pháp cho hoạt động ngân hàng còn chưa thực sự đồng bộ; môi trường kinh tế vi mô chưa thực sự ổn định; thị trường bất động sản đóng băng; thị trường chứng
khoán phát triển thiếu bền vững. Tất cả những điều đó, đặt Vietinbank
trước yêu cầu bắt buộc phải đổi mới toàn diện hoạt động ngân hàng, phát triển mạnh mẽ các loại hình dịch vụ nhằm mục tiêu chiếm lĩnh thị phần, tái
cấu trúc mạnh mẽ và toàn diện hoạt động kinh doanh, giành chiến thắng
trên sân nhà và mở rộng phát triển ra thị trường các nước trên thế giới.
Với những giải pháp được nêu ra, cần phải được Vietinbank áp dụng
đồng bộ, cùng với những bước đi cụ
thể
của quá trình HNKTQT, sẽ
góp
phần tích cực vào việc phát triển bùng nổ
của dịch vụ
NHBL của
Vietinbank, từng bước khẳng định tên tuổi của Vietinbank không chỉ trong nước mà trên phạm vi toàn cầu.