Kinh tế phát triển, thu nhập của dân cư tăng lên, tích luỹ nhiều hơn và người dân cũng tin tưởng vào ngân hàng hơn, nhu cầu nhờ ngân hàng bảo quản hộ vàng bạc, vật quý, tài sản có giá ngày càng tăng lên. Vietinbank nên thực hiện dịch vụ này để đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Để thực hiện dịch vụ bảo quản và ký gửi, ngân hàng phải có kho, tủ bảo quản, lưu giữ tài liệu đảm bảo an toàn, chắc chắn để người gửi tài sản quý, giấy tờ tài liệu yên tâm khi gửi tài sản tại ngân hàng. Mặt khác, đây là dịch vụ mới, ngân hàng cần có biện pháp quảng cáo, tiếp thị tới mọi tầng lớp dân cư để họ thấy được hiệu quả khi gửi tài sản tại ngân hàng. Từ đó dịch vụ bảo quản và ký gửi phát triển.
Dịch vụ cho các ngân hàng nhỏ và quỹ tín dụng: Trong quan hệ với các NHTM, Vietinbank có thể làm dịch vụ bảo quản, dự trữ tiền mặt cho các ngân hàng nhỏ, các quỹ tín dụng, làm dịch vụ tư vấn cho các ngân hàng nhỏ hoạch định chiến lược tín dụng, chiến lược phát triển. Dịch vụ này nên triển khai ở các trung tâm kinh tế của cả nước nơi các ngân hàng và các quỹ tín dụng phát triển nhiều.
Dịch vụ môi giới, đại lý phát hành, bảo quản và quản lý chứng khoán: Trường chứng khoán Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển, việc mua, bán cổ phiếu trở thành nhu cầu kinh doanh phổ biến, thiết yếu của người dân và các tổ chức kinh tế. Để tận dụng cơ hội Vietinbank nên khẩn trương triển khai thực hiện các dịch vụ trên để chiếm thị phần và thu phí hoa hồng.
Dịch vụ bảo hiểm: Đây là lĩnh vực tài chính mới mà Vietinbank tham gia, với những lợi thế rất lớn từ những khách hàng thân thiết đang sử dụng các dịch vụ tài chính khác, mong muốn được sử dụng trọn gói các sản phẩm dịch vụ của Vietinbank. Năm 2011, Vietinbank đã thành lập Công ty bảo hiểm
nhân thọ Vietinbank aviva. Đây là liên doanh giữa Vietinbank và Tập đoàn
Aviva Anh Quốc, với vốn điều lệ 800 tỷ đồng, trong đó mỗi bên liên doanh đóng góp 50% vốn, tương ứng 400 tỷ đồng. Tuy nhiên, do Vietinbank aviva mới đi vào hoạt động, nên sản phẩm dịch vụ còn chưa nhiều, đang trong quá
trình quảng bá và giới thiệu tới các tầng lớp dân cư. Ngoài ra, Vietinbank cũng đẩy mạnh phát triển dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ, với việc thành lập Công ty TNHH MTV Bảo hiểm Vietinbank (Bảo Ngân), nhằm đa dạng hóa hoạt
động bảo hiểm, tăng nguồn thu dịch vụ
Có thể bạn quan tâm!
- Có Chương Trình Đào Tạo Bài Bản Nhằm Củng Cố Triển Nguồn Nhân Lực Của Vietinbank
- Nhóm Giải Pháp Về Phát Triển Sản Phẩm Dịch Vụ Thỏa Mãn Tốt Nhất Nhu Cầu Ngày Càng Cao Của Khách Hàng
- Phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam - 21
- Phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam - 23
- Phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam - 24
- Phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam - 25
Xem toàn bộ 206 trang tài liệu này.
cho Vietinbank. Để
phát huy thế
mạnh của hệ thống mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch, Vietinbank cần
đẩy mạnh việc bán sản phẩm bảo hiểm tại các chi nhánh, lợi dụng tối đa hệ thống mạng lưới và hệ thống khách hàng hiện có của mình.
Dịch vụ ngân hàng điện thoại: Hiện nay việc sử dụng điện thoại trở thành phổ biến, nếu Vietinbank nghiên cứu lắp đặt thiết bị nhận dạng tiếng nói, thiết bị mã hoá và ghi lại các yêu cầu của khách hàng thì có thể thực hiện được các dịch vụ ngân hàng qua điện thoại như: Thanh toán chi trả, chuyển tiền, mua thẻ, xác nhận các thông tin về tài khoản…
Dịch vụ ngân hàng điện tử: Hiện tại, Vietinbank đã triển khai một số sản phẩm dịch vụ ngân hàng điện tử như: Hệ thống thanh toán thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng quốc tế, VBH 2.0, SMS banking, Vietinbank ipay…Tuy nhiên, nhìn chung các sản phẩm trên còn ở mức sơ khai, xử lý còn chậm, hay mắc lỗi kỹ thuật… Chiến lược phát triển dịch vụ NHBL đến năm 2020 đã xác định, ngân hàng điện tử là sản phẩm mũi nhọn của dịch vụ NHBL. Để đạt
được mục tiêu này, Vietinbank cần đầu tư
nhiều hơn nữa về
công nghệ
thông tin, phát triển các sản phẩm tiện ích có độ an toàn cao, chất lượng dịch vụ tốt hướng tới đối tượng khách hàng trẻ, có thu nhập ổn định và thích sử dụng các sản phẩm công nghệ cao.
4.2.4.3. Đổi mới cơ cấu cung cấp dịch vụ theo hướng tăng tỷ trọng các dịch vụ phi tín dụng, phát triển mạnh dịch vụ ngân hàng trực tuyến
Việc đổi mới cơ cấu cung cấp dịch vụ theo hướng thu hẹp các loại
dịch vụ hiệu quả thấp, rủi ro cao, phải đầu tư vốn lớn, mở rộng cung cấp các loại dịch vụ hiệu quả cao, đầu tư vốn nhỏ, rủi ro thấp. Thu hẹp hoạt động dịch vụ tín dụng, tăng dần hoạt động dịch vụ trung gian, ngoại bảng, đặc biệt
chú trọng phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử. Thực hiện thu nhập từ dịch vụ tín dụng đến 2020 chỉ chiếm từ 50% đến 60% tổng thu nhập.
Để đổi mới cơ cấu các loại hình dịch vụ ngân hàng cung cấp ra thị
trường, Vietinbank cần có chiến lược cung cấp dịch vụ cụ thể. Trước hết, Vietinbank phải tổ chức nghiên cứu các loại dịch vụ hiện đang cung cấp cho thị trường, nghiên cứu nhu cầu của thị trường, từ đó quyết định cần phải đẩy mạnh phát triển dịch vụ nào và phát triển như thế nào là vừa, tùy từng thời gian cụ thể, bảo đảm đáp ứng được nhu cầu của thị trường, đồng thời hiệu quả kinh doanh đạt cao nhất, nâng cao khả năng cạnh tranh. Mặt khác, cần tổ chức các đoàn cán bộ đi nghiên cứu, học tập tại các NHTM nước ngoài trong
việc cung cấp các loại dịch vụ ra thị trường, nghiên cứu thị trường và lựa
chọn tung ra thị trường các dịch vụ hợp lý và hiệu quả. Đổi mới cơ cấu cung cấp dịch vụ vừa đáp ứng được yêu cầu sử dụng dịch vụ của thị trường, vừa
tạo điều kiện cho Vietinbank nâng cao hiệu quả cạnh tranh trên thị trường.
kinh doanh, nâng cao sức
4.2.5. Nhóm giải pháp về phát triển thị trường và phương pháp bán sản phẩm
Một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu trong chiến lược bán
hàng đó là xác định chính xác thị trường bán hàng và phương pháp bán hàng phù hợp:
Về thị trường: Đối với dịch vụ NHBL, thị trường tiềm năng được xác định là khối doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ngoài ra, khách hàng cá nhân là thị trường to lớn và lâu dài của dịch vụ NHBL. Chú ý tới khách hàng trẻ tiềm năng trong độ tuổi 2129 (65% dân số Việt Nam có độ tuổi dưới 30) vì tính năng động trong tiếp cận sản phẩm và tính sẵn sàng sử dụng dịch vụ NHBL; ví dụ như các sản phẩm về dịch vụ thẻ và thanh toán không dung tiền mặt;
dịch vụ
Internet banking; phone banking… các dịch vụ
này có đặc điểm là
chứa hàm lượng công nghệ cao, thuận tiện khi sử dụng cả ở trong nước và nước ngoài.
Ngoài thị trường tiềm năng nội địa rộng lớn, Vietinbank cần hướng tới phát triển dịch vụ NHBL tại các thị trường rộng lớn tại các nước phát triển trên thế giới như: Mỹ, Châu âu… Một mặt giúp Vietinbank đa dạng hóa loại hình dịch vụ, tang nguồn thu cho ngân hàng và học hỏi thêm được nhiều kinh nghiệm từ các nước phát triển.
Về
kênh phân phối sản phẩm:
Đối với các NHTM nói chung và
Vietinbank nói riêng việc phát triển kênh phân phối cũng đang là một trong
những giải pháp mang tính tiên quyết bảo đảm sự thành công trong việc
chiếm lĩnh thị phần và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Tại Việt Nam, sau gần 50 năm phát triển, hầu hết các ngân hàng mới chỉ có duy nhất kênh phân phối truyền thống là hệ thống các chi nhánh, phòng giao dịch, việc đa dạng hóa hệ thống kênh phân phối đóng vai trò là một trong những yếu tố làm nên thành công trong cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt về cung cấp các sản phẩm dịch vụ trong lĩnh vực ngân hàng.
Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay, là một nước đang trong quá trình phát triển và hội nhập, nền kinh tế đang có sự đan xen giữa những cái cũ và cái mới, cái hiện đại và cái truyền thống. Điều đó đòi hỏi Vietinbank cần đa dạng hóa các kênh phân phối sản phẩm, bảo đảm phù hợp với sự lựa chọn của các đối tượng khách hàng:
+ Tiếp tục hoàn chỉnh và phát triển kênh phân phối truyền thống tại hệ thống 164 chi nhánh và hơn 1000 phòng giao dịch với các sản phẩm truyền thống như: huy động tiền gửi dân cư, cho vay tiêu dùng, các dịch vụ thanh toán chuyển tiền, dịch vụ kiểu hối…
Tại các nước phát triển, trong thập niên 60, hệ thống chi nhánh ngân h àng đã đóng vai trò là kênh phân phối duy nhất tới thị trường, thập niên 70là
sự xuất hiện của ATM, sau đó hệ thống ATM nhanh chóng lan rộng và trở nên phổ biến và là công cụ hữu ích trên thị trường dịch vụ NHBL.
+ Tích cực đầu tư phát triển mạnh mẽ hệ thống kênh phân phối mới,
dựa trên nền tảng phát triển của hệ thống CNTT (kênh phân phối này đã
được đưa vào sử dụng phổ biến tại các nước phát triển từ những năm 80 của thế kỷ trước). Các kênh phân phối này đang tỏ ra hữu hiệu trong việc giao dịch với khách hàng, do không bị giới hạn về thời gian, không gian và tiết kiệm được rất nhiều lao động nên có mức phí rất hợp lý và tiện dụng với người sử dụng. Các sản phẩm chủ yếu được phân phối trong kênh này chủ yếu là các sản phẩm dịch vụ ngân hàng điện tử như: internet banking, phone banking, mobile banking… Ngân hàng điện tử, hiểu theo nghĩa đơn giản và trực quan nhất đó là sự kết h ợp hoạt động ngân hàng với Internet, là quá trình phát triển tất yếu của CNTT,
điện tử
và tin học. Các sản phẩm dịch vụ
NHĐT mà Vietinbank cần đẩy
mạnh phát triển trong thời gian tới là:
(i) Phone Banking dịch vụ ngân hàng qua điện thoại: Khi sử
dụng
dịch vụ Phone banking, khách hàng có thể tiết kiệm được thời gian, không cần đến ngân hàng, vẫn có thể thực hiện được các giao dịch và cập nhật các thông tin về các sản phẩm dịch vụ, cũng như các thông tin liên quan đến tài
khoản hoạt động của mình tại ngân hàng. Để
phát triển dịch vụ
Phone
banking, Vietinbank cần gia tăng các tiện ích cho sản phẩm, cung cấp thêm nhiều dịch vụ, đầu tư hệ thống máy móc hiện đại, phần mềm hiện đại, dễ sử dụng và mang tính bảo mật thông tin cao.
(ii)Internet Banking: Hệ thống internet ngày càng phát triển và trở nên phổ biến trong đời sống người dân, với số lượng thuê bao internet tăng trưởng mạnh mẽ hàng năm, thì đây là sản phẩm có tốc độ phát triển được đánh giá
rất cao trong thời điểm hiện nay. Để
phát triển mạnh các dịch vụ
internet
banking, Vietinbank cần phát triển mạnh mẽ các hình thức quảng bá sản
phẩm, đổi mới và nâng cấp hệ thống CNTT, xây dựng hệ thống phần mềm dễ sử dụng và đặc biệt là nâng cao khả năng bảo mật thông tin cho khách hàng.
(iii) Mobile banking: Mạng điện thoại di động đã trở thành rất phổ
biến, đó là cơ
sở quan trọng cho sự khẳng định khả
năng cao trong việc
thâm nhập thị
trường và các dịch vụ
ngân hàng cung cấp cho khách hàng
qua kênh phân phối này sẽ
tạo ra sự
dính kết giữa khách hàng hiện tại,
trong đó có tính tới khả năng cung cấp các dịch vụ tại mọi nơi, mọi lúc cho khách hàng. Đây có thể sẽ là sản phẩm dịch vụ được đánh giá là sản phẩm
chủ
đạo của các NHTM trong thời gian tới. Với công nghệ
điện thoại
Smart phone ngày càng phát triển mạnh mẽ, hệ
thống công nghệ
3G tại
Việt Nam được đánh giá là có giá rẻ so với các nước trên thế giới, là điều kiện thuận lợi cho các NHTM trong nước phát triển loại hình dịch vụ này. Có thể khẳng định, Mobile banking là một phương tiện mới phân phối sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Khi sử dụng dịch vụ Mobile banking, khách hàng có thể sử dụng dịch vụ thông qua tin nhắn hoặc truy cập trực tiếp vào internet thông qua hệ thống 3G hoặc mạng LAN Wifi, rất thuận tiện trong việc sử dụng, không hề bị bó hẹp bởi không gian và thời gian.
Tại Vietinbank, trong thời gian qua đã triển khai các sản phẩm dịch vụ mobile banking như: SMS banking, Mobile bank Plus… và đã được khách hàng
đánh giá cao. Để
phát triển mạnh loại hình dịch vụ
này, Vietinbank cần
nghiên cứu phát triển mạnh các dịch vụ đa dạng hơn nữa: dịch vụ chuyển tiền, thanh toán, vay vốn thông qua thẻ tín dụng…
(iv) Callcenter: Đây được coi là bước tiếp theo của việc tiếp tục giảm chi phí và tăng hiệu quả, tiện ích cho khách hàng; và là công cụ hữu ích trong việc cung cấp dịch vụ, chăm sóc khách hàng của dịch vụ NHBL. Callcenter có tầm quan trọng đặc biệt quan trọng của các dịch vụ NHBL, nó giúp hạn chế mặt trái của hệ thống trả lời tự động, bằng sự tư vấn bởi các nhân viên
ngân hàng. Do vậy, để Callcenter thực sự phát huy tác dụng, đòi hỏi đội ngũ nhân viên chăm sóc khách hàng của Vietinbank phải được đào tạo bài bản về
nghiệp vụ, về
các sản phẩm dịch vụ
và văn hóa giao tiếp trong quá trình
chăm sóc khách hàng.
Kênh phân phối mới là công cụ hữu ích giúp ngân hàng tiếp cận khách hàng nhanh, tiết giảm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động. Tuy nhiên, đặt ra vấn đề là bảo mật và an toàn, vì đây là rủi ro của dịch vụ ngân hàng và vấn đề chuyên viên kỹ thuật để bảo hành công nghệ.
4.2.6. Nhóm giải pháp về vốn
Với mục tiêu chiến lược là xây dựng Vietinbank trở thành tập đoàn tài chính mạnh mang tầm khu vực, trong những năm qua Vietinbank đã chủ động thực hiện các giải pháp nhằm đáp ứng đòi hỏi cấp thiết là tăng vốn tự có của ngân hàng, nhằm đáp ứng yêu cầu về quy định về bảo đảm an toàn theo quy định của NHNN và phù hợp với thông lệ quốc tế. Đây là điều kiện bắt buộc để bảo đảm mức an toàn tối thiểu trong hoạt động ngân hàng, và giúp ngân hàng có điều kiện đầu tư phát triển cơ sở vật chất, hiện đại hóa CNTT; đồng thời tăng vốn cũng là nhân tố quyết định để Vietinbank có thể tăng quy mô tài sản, nâng cao năng lực thu hút và phân bổ nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế.
Quá trình tăng vốn tự
có phải đi đôi với quá trình cổ
phần hóa
Vietinbank, đa dạng hóa hình thức sở hữu theo nguyên tắc nhà nước nắm cổ phần chi phối. Phát hành cổ phiếu, trái phiếu chuyển đổi là biện pháp chủ yếu để tăng vốn điều lệ. Tuy nhiên, việc tăng vốn cần được lựa chọn các hình thức, giải pháp tăng vốn tự có một cách đồng bộ và theo nguyên tắc thị trường theo quy định của pháp luật và tiêu chuẩn quốc tế.
Tháng 12/2008, Vietinbank thực hiện IPO lần đầu, với 4% vốn điều lệ tại Sở Giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh với tổng số lượng cổ phần phát hành là 53,6 triệu cổ phần. Trước IPO vốn tự có của Vietinbank là 10.646
tỷ đồng, sau khi IPO vốn tự có của Vietinbank đã được nâng lên 12.336 tỷ đồng. Tháng 01/2011, Vietinbank thực hiện thương vụ bán 10% vốn điều lệ theo hình thức phá hành cổ phiếu đơn lẻ cho Công ty cổ phần tài chính quốc tế (IFC) thuộc nhóm ngân hàng thế giới tháng 12/2012, Vietinbank thực hiện thành công thương vụ bán 20% cổ phần cho Bank of TokyoMitsubishi UFJ, nâng vốn tự có của Vietinbank lên 34.946 tỷ đồng, trở thành NHTM có vốn điều lệ lớn nhất và cơ cấu cổ đông mạnh nhất Việt Nam hiện nay.
Mặc dù là NHTM có vốn tự có lớn nhất Việt Nam hiện nay (khoảng 1,7 tỷ USD), tuy nhiên so với các NHTM trong khu vực và trên thế giới (ICB
Trung Quốc 20 tỷ
USD, Krungbank Thái Lan 5,8 tỷ
USD, City Bank 83 tỷ
USD…) thì vốn tự có của Vietinbank vẫn còn khá khiêm tốn. Chính vì vậy, để thực hiện được các mục tiêu chiến lược đã đề ra, Vietinbank cần tiếp tục có các giải pháp nhằm tăng vốn tự có trong thời gian tới:
Thứ
nhất, Vietinbank cần tiếp tục thực hiện quá trình cổ
phần hóa,
thông qua việc phát hành cổ phiếu cho các cổ đông trong nước; trong bối cảnh thị trường chứng khoán đang trầm lắng hiện nay, có thể xin ý kiến cổ đông để phát hành cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu từ lợi nhuận hàng năm.
Thứ hai, tiếp tục kêu gọi sự tham gia mua cổ phần của các ĐCTC lớn và có uy tín trên thế giới, nhằm tăng nhanh năng lực tài chính và tiếp thu các kinh nghiệm quản lý tiên tiến từ các nước phát triển.
Thứ
ba, đề
nghị
Chính phủ
cần tiếp tục cấp bổ
sung vốn cho
Vietinbank, nhằm duy trì vai trò nắm giữ cổ phần chi phối nhằm điều tiết đối với nền kinh tế.
Thứ tư, thực hiện phát hành trái phiếu chuyển đổi cho các đối tượng khách hàng trong và ngoài nước.
4.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
4.3.1. Đối với Chính phủ