Phát triển công nghiệp chế biến thủy sản tại tỉnh Trà Vinh - 8


theo sự tăng trưởng của ngành [156]. Có thể gia tăng thị phần bằng nhiều cách khác nhau, ví dụ: thay đổi sản phẩm, dịch vụ và giá cả sản phẩm kết hợp phương pháp quảng bá, gia tăng ngân sách tiếp thị hoặc có thể cải thiện hệ thống phân phối.

Trong thị trường cạnh tranh ngày nay, để thị trường tiêu thụ phát triển được ổn định và bền vững thì ngoài việc cần chú trọng chất lượng sản phẩm, các doanh nghiệp cũng cần tiếp cận nhiều hơn với người tiêu dùng thông qua các kênh phân phối phù hợp. Việc lựa chọn kênh phân phối đòi hỏi đầu tư nhiều thời gian để nghiên cứu, nắm bắt được thị trường và xu hướng phát triển. Kênh phân phối sẽ thể hiện được sức mạnh, độ phủ và thị phần trên thị trường. Khi hệ thống kênh phân phối hoạt động hiệu quả sẽ giúp doanh nghiệp có thể cạnh tranh được với các đối thủ và từ đó thị phần sẽ càng được mở rộng, càng giúp doanh nghiệp có chổ đứng trên thị trường [82], [156].

Giả thuyết H2: Thị trường tiêu thụ có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển ngành CNCBTS tỉnh Trà Vinh.

1.4.3. Dịch vụ hỗ trợ và Hiệp hội

Các dịch vụ hỗ trợ và hiệp hội là những đơn vị thực hiện các hoạt động phối hợp hoặc chia sẻ các hoạt động trong chuỗi giá trị hoặc các hoạt động liên quan đến các sản phẩm bổ sung cho các quốc gia, các địa phương cụ thể. Các đơn vị này có thể có mối liên kết ngược và liên kết chặt chẽ với các yếu tố trong một lĩnh vực nhất định. Các dịch vụ hỗ trợ ngành CNCBTS như ngành cơ khí cung cấp thiết bị công nghệ hiện đại, dịch vụ bảo trì, sửa chữa máy móc thiết bị, điện; ngành cung cấp nguyên liệu phụ, sản xuất bao bì; cơ sở đào tạo nguồn nhân lực; cơ sở cung ứng lao động; dịch vụ công cộng như cơ sở hạ tầng chung gồm giao thông và truyền thông, ngành cung cấp điện, nước; kho lạnh, vận chuyển, cảng, đóng gói, hậu cần, và ngành khai thác và nuôi trồng thủy sản. Cơ sở hạ tầng cho kinh doanh quốc tế là quan trọng, trong đó, vận tải quốc tế được đo lường theo mức độ cơ sở hạ tầng vận chuyển hàng không quốc tế, cảng biển quốc tế đáp ứng các yêu cầu kinh doanh [122]. Lợi thế cạnh tranh có nguồn gốc từ các ngành công nghiệp hỗ trợ mạnh và cơ sở hạ tầng tốt [150], [82].

Hoạt động xúc tiến thương mại góp phần thúc đẩy và hỗ trợ xuất khẩu, nó có ảnh hưởng tích cực đến các hoạt động hợp tác và hợp tác chất lượng cao đối với các


doanh nghiệp xuất khẩu [212]. Khi xây dựng chương trình thực hiện xúc tiến thương mại, cần phải hành động nhiều mặt và chu đáo, bởi vì cách tiếp cận như vậy sẽ hỗ trợ đáng kể cho các doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa và dịch vụ ở nước ngoài. Các nhà hoạch định chính sách xuất khẩu cần rà soát các quy tắc thương mại xuyên biên giới theo hướng tự do hóa, giảm các rào cản thương mại chủ yếu cản trở thương mại hàng hóa - hạ thuế quan, thuế quan và các rào cản thương mại khác [138]. Xúc tiến thương mại là một biện pháp hỗ trợ xuất khẩu quan trọng nhằm kích thích và giúp các công ty xuất khẩu tăng doanh số xuất khẩu. Trong một thị trường xuất khẩu dường như dễ tiếp cận trong môi trường toàn cầu, những doanh nghiệp mới thường thất vọng khi bắt đầu xuất khẩu, một số điều kiện không được tính đến như thông tin về người mua tiềm năng và thói quen của họ, đặc điểm cung cấp của thị trường tiềm năng, hệ thống thuế. Và một nghiên cứu khác cũng cho thấy rằng xúc tiến thương mại (tạo nên sự phát triển của thị trường, cải thiện cấp phép thương mại, cấp trợ cấp cũng như tiếp thị thương mại) đã thúc đẩy đáng kể sự phát triển của các doanh nghiệp [127].

Hỗ trợ đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh trong tương lai của doanh nghiệp [195]. Sử dụng định nghĩa rộng rãi về đổi mới bao gồm sản phẩm, quy trình, tiếp thị và phát triển thị trường mới. Chi phí cho hoạt động đổi mới sáng tạo rất cao, vì thế cần được hỗ trợ từ các chương trình, dự án. Các kết quả sáng tạo và công nghệ cao là sản phẩm và dịch vụ do các doanh nghiệp tạo ra được bán ra nước ngoài, trong nước, điều này giúp doanh nghiệp phát triển hơn, đồng thời giúp cho ngành phát triển [160]. Tác động của chương trình hỗ trợ đổi mới sáng tạo do nhà nước tài trợ đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong các ngành sản xuất truyền thống là tích cực, điển hình là tăng xác suất đổi mới và thành công thương mại của các doanh nghiệp [186].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 233 trang tài liệu này.

Dịch vụ logistics (kho lạnh, vận tải, cảng): Logistics nói chung có thể được xác định bởi trọng tâm của nó là tối ưu hóa các hoạt động kinh doanh liên quan đến dòng chảy và lưu trữ hiệu quả hàng tồn kho, hàng hóa và dịch vụ trong toàn bộ chuỗi cung ứng [111], cụ thể một số dịch vụ chính của logistics như vận tải, tư vấn


Phát triển công nghiệp chế biến thủy sản tại tỉnh Trà Vinh - 8

hải quan, dịch vụ kho bãi và phân phối. Có thể nói, logistics đều góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất nhập khẩu. Nhờ đó, nó hỗ trợ cho sự phát triển của ngành nói riêng và nền kinh tế nói chung. Nghiên cứu của Guo ping Cheng và các cộng sự [182] cũng cho thấy ngành logistics ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn trong tăng trưởng kinh tế và trở thành trụ cột kinh tế của khu vực.

Hiệp hội là tổ chức đại diện cho các doanh nghiệp trong sự phối hợp và hợp tác với nhà nước để tìm hiểu thông tin về chính sách kinh tế, tài chính, thuế và tín dụng. Tại Nhật Bản, các hiệp hội đã cùng hiệp thương với các cơ quan của chính phủ để xây dựng các chính sách công nghiệp của các ngành. Ở Việt Nam, hiệp hội hỗ trợ ngành CNCBTS gồm hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản (VASEP), trong đó VASEP đóng vai trò quan trọng đối với xuất khẩu thủy sản. Một trong những vai trò của hiệp hội là cung cấp thông tin về pháp luật, thị trường, cung cấp dịch vụ kinh doanh, hỗ trợ xúc tiến thương mại, giải quyết tranh chấp để hỗ trợ doanh nghiệp. Để phát huy được vai trò đại diện bảo vệ quyền và lợi ích cho các doanh nghiệp trong nước thì mỗi hiệp hội sẽ xây dựng chiến lược phát triển dài hạn phù hợp bối cảnh. Đặc biệt, hiệp hội còn có trách nhiệm trong việc liên kết, lôi kéo sự lan tỏa về vốn, công nghệ, quản trị doanh nghiệp từ trong nước đến ngoài nước. Bên cạnh đó, hiệp hội còn đại diện doanh nghiệp trao đổi, kiến nghị với chính quyền các cấp về cơ chế, chính sách, pháp luật cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Qua đó, các cơ chế, chính sách ngày càng được cải thiện theo hướng phù hợp và được thực thi hiệu quả. Ngoài ra, trong quá trình xây dựng pháp luật, vai trò của các hiệp hội trở nên vô cùng quan trọng, với mạng lưới của mình, các hiệp hội sẽ tổ chức lấy ý kiến hội viên và tham gia đóng góp ý kiến xây dựng các đạo luật liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp với cơ quan lập pháp. Hoạt động này của các hiệp hội được đánh giá là điều kiện quan trọng để các văn bản pháp luật có thể được đi vào cuộc sống. Có thể nói, các hiệp hội doanh nghiệp là điểm tựa và là nơi phản ảnh hơi thở của cộng đồng doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp - hội viên hoạt động chủ động, tự tin và hiệu quả hơn trong quá trình


nâng cao năng lực cạnh tranh và theo đuổi các mục tiêu của mỗi doanh nghiệp trong sự hài hòa với các lợi ích khác.

Còn ở địa phương, cụ thể tỉnh Đắk Lắk, nghiên cứu của Nguyễn Thanh Trúc (2015) cho thấy sự hỗ trợ của hiệp hội không có ảnh hưởng đến sự phát triển công nghiệp chế biến cà phê của tỉnh [82]. Vậy, đối với ngành công nghiệp chế biến thủy sản tại Trà Vinh thì Hiệp hội, cụ thể Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam có ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành không?.

Giả thuyết H3: Dịch vụ hỗ trợ và Hiệp hội có ảnh hưởng tich cực đến sự phát triển ngành CNCBTS tỉnh Trà Vinh.

1.4.4. Sự cạnh tranh trong ngành

Porter (1990) cho rằng không có một hệ thống quản lý nào là phù hợp trên toàn cầu. Thay vào đó, ông thể hiện sự ưu tiên ủng hộ sự cạnh tranh mạnh mẽ trong nước để tạo ra và duy trì lợi thế cạnh tranh trong một ngành công nghiệp [164]. Sự cạnh tranh được coi là yếu tố tác động tích cực đến sự phát triển của ngành [216]. Liên quan đến CNCBTS, ngành sẽ chịu tác động rất lớn từ sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành. Sự cạnh tranh này tập trung những vấn đề chính như cạnh tranh về giá cả, sản phẩm, thị trường và nguyên liệu. Chính vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, sản xuất sản phẩm mới để tồn tại và phát triển. Các doanh nghiệp chế biến thủy sản có quy mô nhỏ có thể sử dụng chiến lược theo chiều rộng hoặc chiều sâu [150] để tăng năng lực sản xuất và giảm thiểu chi phí, tăng khả năng cạnh tranh thông qua sự khác biệt sản phẩm, dịch vụ hoặc thay đổi về chi phí.

Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, các cơ sở chế biến trong ngành là một trong những yếu tố phản ánh bản chất của môi trường ngành. Sự có mặt và hoạt động của các đối thủ cạnh tranh chính trên thị trường sẽ tác động trực tiếp và mạnh mẽ tới quá trình hoạt động của các cơ sở chế biến. Số lượng đối thủ cạnh tranh trong một ngành là thước đo mức độ cạnh tranh trong một thị trường [99]. Gimmon (2021) cho rằng việc có ít đối thủ cạnh tranh có tác động tích cực đáng kể đến tăng trưởng số lượng nhân viên, tuy nhiên, điều bất ngờ là nhóm doanh nghiệp không có


đối thủ cạnh tranh lại không thể hiện bất kỳ lợi thế tăng trưởng nào [132]. Bên cạnh đó, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, cơ sở chế biến cao hơn khi nó có lợi thế về giá, sự đa dạng về sản phẩm, chất lượng sản phẩm,.. hoặc sẽ thấp đi khi có đối thủ có nhiều lợi thế hơn hẳn. Theo Nguyễn Thanh Trúc (2015) [82] khả năng cạnh tranh của ngành cà phê dựa trên 4 yếu tố chính đó là: Giá lao động rẻ; lợi thế về vận chuyển, chi phí bốc xếp rẻ, thời gian thông quan hàng hóa đã được cải thiện. Tương tự, nghiên cứu của Zongyun Song và cộng sự [198] cũng cho rằng chi phí vận chuyển sẽ tăng lên nếu cơ sở hạ tầng không đáp ứng đầy đủ, đó là một trong những thách thức đối với sự phát triển của ngành. Ngoài ra, để có thể duy trì khả năng cạnh tranh của ngành thì những sản phẩm thay thế phải là không hoàn hảo [153]. Ngành chế biến thủy sản sử dụng nhiều lao động, chi phí nhân công luôn là một phần quan trọng trong chi phí của ngành và nó có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của các sản phẩm [95] và nguồn lực lao động có tác động tích cực đến sự cạnh tranh của ngành [131]. Thực tế, nhiều doanh nghiệp tại các khu công nghiệp ở các thành phố lớn về địa phương tuyển dụng lao động, đưa ra chính sách thu hút: trả tiền tăng ca, ăn ca và nhiều chính sách hỗ trợ khác vì thế một số lao động ở các cơ sở chế biến bỏ việc để vào làm tại các doanh nghiệp này. Điều này làm cho lực lượng lao động của các cơ sở chế biến thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, ảnh hưởng lớn đến hoạt động chế biến. Khi tuyển mới thì lao động lại thiếu kinh nghiệm, tốn thời gian đào tạo lại. Vì vậy, việc ổn định bền vững lực lượng lao động tham gia hoạt động chế biến là quan trọng và cần thiết.

Giả thuyết H4: Sự cạnh tranh trong ngành có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển ngành CNCBTS.

1.4.5. Các chính sách của Nhà nước

Chính phủ (Nhà nước) trong các nền kinh tế nhỏ là quan trọng hơn bất cứ điều gì trong việc ảnh hưởng đến các biến số khác. Điều này không có nghĩa là chính phủ nên can thiệp vào mọi khía cạnh của các vấn đề kinh doanh, nhưng chính phủ nên rất cẩn thận khi can thiệp, xem xét tác động tiềm tàng lớn đến khả năng cạnh tranh của nó [170]. Theo Kulapa Supongpan Kuldilok (2009) [150], chính phủ


có vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của ngành CNCBTS. Tuy nhiên, vai trò của nhà nước không phải lúc nào cũng chủ động và hiệu quả, đặc biệt là trong việc đàm phán các rào cản thương mại từ các quốc gia nhưng các chính sách của nhà nước có thể tác động đến sự phát triển của ngành như chính sách đất đai, chính sách lao động, chính sách thuế, thương mại và chính sách kiểm soát chất lượng [122].

Nhà nước có thể tác động gián tiếp tích cực hoặc tiêu cực đến bốn nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành CNCBTS và tác động trực tiếp đến sự phát triển của ngành. Các chính sách nhà nước tác động đến nguồn cung ứng nguyên vật liệu (như hỗ trợ khoa học- công nghệ, đầu tư cơ sở hạ tầng), thị trường tiêu thụ (như kích cầu, dùng các quy định nhằm thúc đẩy đổi mới), các dịch vụ hỗ trợ (như tạo điều kiện thuận lợi nhằm phát triển doanh nghiệp, nhà cung cấp, nhà phân phối và tiêu thụ), sự cạnh tranh của ngành (như thúc đẩy cạnh tranh trong nước, tăng cường thương mại và đầu tư công nghiệp).

Hoạch định chính sách ở cấp chính phủ rất quan trọng, Ibekwe (1984) [142] nhấn mạnh “Mục tiêu chính sách của một quốc gia như thường nói là tăng sản lượng, giảm lạm phát, giảm thất nghiệp, giảm thiểu bất bình đẳng kinh tế và tạo cân bằng thương mại”. Các chính sách của chính phủ có ảnh hưởng lớn đến các ngành công nghiệp quy mô nhỏ [178]. Vai trò của nhà nước trong việc ổn định thị trường, định hướng thị trường xuất khẩu, cập nhật thông tin thị trường các nước trong khu vực và trên thế giới, trợ giúp các doanh nghiệp xây dựng thương hiệu hàng hóa có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển ngành [34]. Micheal và Jones (1973) [163] tuyên bố “Chính quyền ở các cấp khác nhau là một nguyên đơn quan trọng, luật chống tham nhũng và lao động, yêu cầu ghi nhãn sản phẩm, thuế và các loại quy định và kiểm soát khác của chính phủ” và một vài nghiên cứu khác cũng cho rằng chính sách thuế quan có tác động đến ngành [139], [172].

Thuế là chi phí chính mà các doanh nghiệp cân nhắc khi đầu tư vào một quốc gia, và chính phủ thường xuyên sử dụng các biện pháp khuyến khích ưu đãi thuế để thu hút đầu tư của doanh nghiệp. Các chính sách thuế, các ưu đãi thuế nhằm làm


hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Mặt khác, các chính sách thuế nội địa bất lợi, ngược lại, có thể khiến các doanh nghiệp chuyển ra khỏi một quốc gia để đến các địa điểm sản xuất thay thế. Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp trong nước cao hơn đã làm tăng đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp nhưng làm giảm vốn nội địa của các công ty trong nước [124]. Có thể nói, bản chất và mức độ của chính sách thuế có tác động đối với nhu cầu đầu tư [136]. Thuế doanh nghiệp được chấp nhận rộng rãi đóng vai trò quan trọng đối với triển vọng tăng trưởng, thuế suất theo luật định đóng một vai trò quan trọng trong quyết định của các công ty đa quốc gia về nơi đặt hoặc nắm giữ các công ty con ở nước ngoài [102]. Các quyết định đầu tư không chỉ phụ thuộc vào thuế suất doanh nghiệp theo luật định mà còn phụ thuộc vào việc đo lường cơ sở tính thuế [174].

Nhãn hàng hóa thường được sử dụng để cung cấp thông tin cho người tiêu dùng về các đặc điểm của sản phẩm mà họ không thể đánh giá được. Các nhà kinh tế gọi loại đặc điểm này như một thuộc tính đáng tin cậy [115], [107]. Việc ghi nhãn hàng hóa có thể biến đổi một đặc điểm đáng tin cậy như vậy thành một thuộc tính tìm kiếm mà người tiêu dùng có thể tìm hiểu bằng cách kiểm tra gói sản phẩm [104], [105]. Ghi nhãn ảnh hưởng đến toàn bộ chuỗi cung ứng cho các sản phẩm thực phẩm. Chính phủ quy định việc ghi nhãn nếu họ tin rằng một loại thông tin nhất định là quan trọng đối với người tiêu dùng và không được thị trường tư nhân cung cấp đầy đủ. Chính phủ có thể lựa chọn nhiều chính sách từ việc ngăn chặn gian lận trong ghi nhãn giản đơn đến việc thiết lập các tiêu chuẩn cho nhãn tự nguyện hoặc ghi nhãn bắt buộc. Ghi nhãn bắt buộc được xem là lựa chọn tốt nhất cho các đối tác thương mại trên thị trường thế giới [106]. Thật vậy, người tiêu dùng ngày càng tiếp xúc nhiều hơn với các nhãn thể hiện các khía cạnh chế biến cụ thể của sản xuất thực phẩm. Dưới sự giám sát thích hợp của bên thứ ba hoặc chính phủ, nhãn hàng hóa có thể thu hẹp hiệu quả khoảng cách thông tin giữa người sản xuất và người tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng về các tiêu chí đảm bảo chất lượng rộng rãi và nghiêm ngặt hơn, và cuối cùng tạo ra giá trị cho cả người tiêu dùng và nhà sản xuất [162].


Các chính sách thuận lợi từ cấp quốc gia và chính quyền địa phương cùng với chính sách hỗ trợ về lãi suất cho vay thấp hơn đối với ngành chế biến thủy sản khuyến khích đầu tư và nâng cao năng lực sản xuất trong một thời gian ngắn [221]. Các chính sách như đàm phán thỏa thuận thương mại, kiểm soát chất lượng [150], bảo tồn nghề cá, thương mại, quy hoạch, lao động và chính sách tài chính [122] và các chính sách về phát triển, quy hoạch vùng nguyên liệu, phát triển công nghiệp hỗ trợ.

Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ các thủ tục hành chính để rút ngắn thời gian giải quyết các thủ tục cho doanh nghiệp góp phần thúc đẩy sự pháp triển của ngành [83], [145]. Cải cách thủ tục hành chính thông qua việc rút ngắn quy trình xử lý hồ sơ, giảm thời gian thực hiện, giải quyết các thủ tục liên quan đến đầu tư, đất đai, giải phóng mặt bằng, thuế,…góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thu hút nhiều doanh nghiệp đến xúc tiến đầu tư. Chính phủ cũng đã đề ra mục tiêu thực hiện rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh, thành phần hồ sơ và tối ưu hóa quy trình giải quyết thủ tục hành chính trên cơ sở ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin; bãi bỏ các rào cản hạn chế quyền tự do kinh doanh, cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường đầu tư kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch. Ngoài ra, chính phủ đẩy mạnh thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử để doanh nghiệp có thể thực hiện dịch vụ mọi lúc, mọi nơi, trên các phương tiện khác nhau [17]. Quy định hành chính còn là chìa khóa để cải thiện môi trường kinh doanh. Đồng thời, công cụ quản lý công để điều tiết kinh tế này là một phương thức can thiệp mới của nhà nước vào nền kinh tế quốc dân [98].

Giả thuyết H5: Các chính sách của nhà nước ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển CNCBTS.

Xem tất cả 233 trang.

Ngày đăng: 14/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí