Quan Điểm Về Việc Xử Lý Người Chưa Thành Niên Phạm Tội


Khái niệm này bao gồm những nội dung cơ bản sau:


1. Xác định tuổi chịu trách nhiệm hình sự


Điều 12 BLHS Việt Nam quy định: "Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng".

Như vậy BLHS Việt Nam đã quy định rò độ tuổi tối thiểu đối với người chưa thành niên phạm tội là từ đủ 14 tuổi và độ tuổi tối đa là chưa đủ 18 tuổi. Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất nguy hiểm của hành vi và mức độ lỗi của người phạm tội, luật hình nước ta đã quy định rò hai mức độ tuổi khác nhau:

Thứ nhất: Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng.

Thứ hai: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.

Với hai mức về độ tuổi này thì những người từ đủ 18 tuổi trở lên phạm tội không được coi là người chưa thành niên phạm tội. Đây là điểm cần phân biệt giữa người chưa thành niên phạm tội với người đã thành niên phạm tội. Pháp luật quy định về độ tuổi như vậy, để cho các cơ quan bảo vệ pháp luật phải lưu ý đến người chưa thành niên phạm tội. Rò ràng là đã có sự xem xét giữa các yếu tố phát triển tâm sinh lý của người chưa thành niên và xác định mục đích xử lý vi phạm của họ, chủ yếu là giáo dục, giúp đỡ, sửa chữa những sai lầm, để họ trở thành người công dân có ích cho xã hội.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

2. Người chưa thành niên phải có hành vi phạm tội


Áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hà Tây của cơ quan Cảnh sát điều tra - 5

Cũng giống như người đã thành niên phạm tội, việc xem xét hành vi phạm tội của người chưa thành niên có phải là tội phạm hay không phải là tội phạm thì điều cần thiết là chúng ta phải xem xét đến các dấu hiệu cơ bản của tội phạm. Tại khoản 1 Điều 8 BLHS năm 1999 quy định về các dấu hiệu tội phạm như sau:


+ Hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS.


+ Do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện cố ý hay vô ý.


+ Xâm phạm đến những quan hệ xã hội được luật hình sự nước Cộng hòa XHCN Việt Nam bảo vệ.

+ Cần xử lý bằng hình phạt đối với người thực hiện hành vi xâm phạm đến các lợi ích được luật hình sự bảo vệ.

Khi thỏa mãn các dấu hiệu này thì hành vi nguy hiểm cho xã hội mới có thể được coi là tội phạm.

3. Quan điểm về việc xử lý người chưa thành niên phạm tội


Trên cơ sở mối quan hệ giữa trách nhiệm giáo dục, quản lý của xã hội, gia đình và nhà trường, việc xử lý những hành vi phạm tội của người chưa thành niên đã được quy định tại Điều 69 BLHS năm 1999. Quy định này thể hiện được tinh thần nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam đồng thời phù hợp với tinh thần công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em theo những nguyên tắc cơ bản sau:

- Việc xử lý hành vi phạm tội của người chưa thành niên nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, trở thành công dân có ích cho xã hội. VKS, Tòa án chủ yếu áp dụng biện pháp giáo dục, phòng ngừa. Gia đình, nhà trường, xã hội tham gia tích cực và thực hiện những biện pháp ấy (khoản 1 và khoản 2 Điều 69 BLHS năm 1999).

- VKS có thể miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng, gây hậu quả không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và nếu được gia đình hoặc một tổ chức xã hội nhận trách nhiệm giám sát, giáo dục.

- Chỉ đưa người chưa thành niên phạm tội ra xét xử và áp dụng các hình phạt đối với họ trong những trường hợp cần thiết và phải thỏa mãn đồng thời ba điều kiện:


+ Người chưa thành niên phạm tội có nhân thân xấu.


+ Tội phạm đã thực hiện có tích chất nghiêm trọng.


+ Những biện pháp giáo dục, phòng ngừa như buộc phải thử thách, đưa vào trường giáo dưỡng không đủ hiệu lực để cải tạo người chưa thành niên phạm tội mà cần phải áp dụng hình phạt đối với họ.

- Không xử phạt từ chung thân hoặc tử hình người chưa thành niên phạm tội. Khi phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên phạm tội hưởng mức án nhẹ hơn mức áp dụng với người thành niên.

- Những hậu quả pháp lý liên quan đến việc áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội nhẹ hơn đối với người thành niên:

+ án đã tuyên đối với người phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi thì không tính để xác định tái phạm hay tái phạm nguy hiểm.

+ Người chưa thành niên bị kết án nếu cải tạo tốt thì được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt vào thời gian sớm hơn so với thời gian và mức quy định đối với người thành niên.

+ Thời hạn xóa án đối với người chưa thành niên là một nửa thời hạn quy định cho người thành niên. Nếu người chưa thành niên phạm tội được áp dụng những biện pháp tư pháp có tính chất giáo dục, phòng ngừa thì không bị coi là có án.

Nghiên cứu vấn đề này, một điểm mà chúng ta cần lưu ý đó là phân biệt người chưa thành niên phạm tội với người chưa thành niên làm trái pháp luật. Bởi nó liên quan đến việc xử lý, giáo dục, áp dụng biện pháp hành chính hay truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ. Điểm khác biệt cơ bản giữa hai hành vi được thể hiện: Phạm tội là xâm phạm vào các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ còn vi phạm pháp luật cũng là sự xâm phạm các quan hệ xã hội nhưng được các ngành luật khác bảo vệ như Luật Hành chính, Dân sự, Hôn nhân gia đình…Hành vi phạm tội có tính chất, mức độ nguy hiểm cao hơn so với hành vi trái pháp luật. Mức độ, hậu


quả thiệt hại cho xã hội của tội phạm gây nên lớn hơn do hậu quả do các hành vi trái pháp luật gây nên. Biện pháp cưỡng chế được áp dụng đối với tội phạm nghiêm khắc hơn so với biện pháp cưỡng chế được áp dụng đối với hành vi làm trái pháp luật. Tuy nhiên, cả hai hành vi này đều có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau.

Trong thực tế có nhiều hành vi làm trái pháp luật rất khó phân biệt với tội phạm, đặc biệt là ranh giới giữa tội phạm và hành vi trái pháp luật. Do vậy việc phân biệt hai hành vi này là việc làm cần thiết, để tránh những sự sai sót có thể xảy ra khi giải quyết vụ án hình sự liên quan đến người chưa thành niên.

1.2.3. Những quy định về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

BLHS năm 1999 từ Điều 69 đến Điều 77 là những quy định đối với người chưa thành niên phạm tội. Điều 12 BLHS đã định rò tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên. Điều 69 quy định những nguyên tắc cơ bản về xử lý những hành vi phạm tội của người chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải thận trọng khi xử lý phải xác định rò tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, lấy biện pháp giáo dục, phòng ngừa là chính và chỉ áp dụng hình phạt khi cần thiết, không tử hình, phạt tù chung thân đối với người chưa thành niên phạm tội. Tại các điều 70, 71, 72, 73, 74 nêu lên những biện pháp tư pháp về hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội đã thể hiện sự coi trọng công tác phòng ngừa, lấy giáo dục thuyết phục là chính trong đó có biện pháp tư pháp, giáo dục, phòng ngừa do Tòa án quy định gồm buộc phải chịu thử thách, đưa vào trường giáo dưỡng. Đây là những căn cứ pháp lý để tiến hành tổ chức các hoạt động phòng ngừa, không để tội phạm xảy ra và khi đã xảy ra phải xem xét, xử lý người chưa thành niên phạm tội cho đúng pháp luật.

Cùng với các quy định của BLHS 1999, BLTTHS 2003 cũng dành toàn bộ phần thứ 7 thủ tục đặc biệt và chương XXXII quy định thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Từ Điều 301 đến Điều 310 trong đó Điều 302 quy định về điều tra, truy tố, xét xử yêu cầu: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán tiến


hành tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh, phòng chống tội phạm của người chưa thành niên. Điều này tránh được những sai lầm, lệch lạc khi xem xét, đánh giá, xử lý những hành vi phạm tội do người chưa thành niên gây ra. Bên cạnh đó các chủ thể khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử cần phải xác định rò: Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người chưa thành niên, điều kiện sinh sống và giáo dục, có hay không có người thành niên xúi giục, nguyên nhân và điều kiện phạm tội.

áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội có đặc điểm là:

- Phải thực hiện theo đúng những quy định về căn cứ, điều kiện, thẩm quyền và thủ tục được quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88, 89, 90, 91, 92, 93 BLTTHS. Ngoài việc tuân thủ các điều kiện này, khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn, cơ quan có thẩm quyền phải thực hiện theo những quy định tại Điều 303 BLTTHS.

- Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự do người chưa thành niên thực hiện, ngoài những yêu cầu mà Điều 302 quy định cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán thì tại Điều 303 BLTTHS quy định việc bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên. Việc bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội phải đảm bảo đầy đủ các quy định của pháp luật và chia làm hai trường hợp:

+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 BLTTHS nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.

+ Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ được quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 BLTTHS nhưng


chỉ trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.

Như vậy, theo quy định tại Điều 303 BLTTHS thì việc bắt, tạm giam, tạm giữ người chưa thành niên phạm tội được hiểu như sau:

- Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, hay đang bị truy nã là người chưa thành niên chỉ được áp dụng với những trường hợp đó là:

+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82 BLTTHS nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.

+ Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu có đủ căn cứ được quy định tại các điều 80, 81, 82 BLTTHS nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.

- Việc tạm giam, tạm giữ người chưa thành niên chỉ được áp dụng trong những trường hợp sau:

+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 86, 88 và 120 BLTTHS nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.

+ Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu có đủ căn cứ được quy định tại các điều 86, 88 và 120 BLTTHS nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.

Theo Nghị định số 149 của Chính phủ ngày 05/05/1992 quy định: Khi tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phạm tội, phải giam giữ riêng, tách khỏi các đối tượng khác.

Trường hợp người chưa thành niên không bị bắt, tạm giam, tạm giữ theo quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 BLTTHS thì vẫn có thể bị áp dụng


các biện pháp ngăn chặn khác như cấm đi khỏi nơi cư trú điều 91, bảo lĩnh Điều 92, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo điều 93. Nội dung những biện pháp ngăn chặn này đã được trình bày ở các mục 1.1.5.4, 1.1.5.5, 1.1.5.6 Phần 1.1.5 chương 1.

Trường hợp người chưa thành niên không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn nào của BLTTHS thì cơ quan tiến hành tố tụng có thể giao cho cha mẹ, người đỡ đầu, người giám hộ của họ giám sát để đảm bảo sự có mặt khi triệu tập. Người được giao nhiệm vụ giám sát có nghĩa vụ quản lý chặt chẽ người chưa thành niên, theo dòi tư cách đạo đức và giáo dục người đó.

1.2.4. Nhiệm vụ của cơ quan Cảnh sát điều tra trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội

Tại điều 3 Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự 2004 quy định: CQĐT tiến hành điều tra tất cả các tội phạm, áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ, đề nghị truy tố, tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội và yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa.

Với quy định trên thì cơ quan CSĐT có các nhiệm vụ sau:


- Tiến hành điều tra tất cả các tội phạm (thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT CSND) áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ để truy tố.

- Khi tiến hành điều tra, cần phải xác định rò: Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người chưa thành niên, điều kiện sinh sống và giáo dục, có hay không có những người lớn xúi giục.

- Khi tiến hành điều tra vụ án hình sự, cơ quan CSĐT có nhiệm vụ tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa.

- CQĐT có nhiệm vụ tiếp nhận và tiếp tục điều tra theo thẩm quyền những vụ án hình sự mà người chưa thành niên thực hiện, do các cơ quan được giao nhiệm


vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong lực lượng Cảnh sát nhân dân, cơ quan hải quan, cơ quan kiểm lâm chuyển sang.

Theo quy định của BLTTHS, cơ quan CSĐT có quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, nhằm mục đích ngăn ngừa kịp thời hành vi phạm tội, hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở hoạt động điều tra, xét xử của người chưa thành niên.

Để đảm bảo cho việc thực hiện những quyền tố tụng của mình trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, cơ quan CSĐT phải làm tốt một số vấn đề sau:

1. Trực tiếp tiến hành các biện pháp điều tra, nắm, nghiên cứu tình hình, diễn biến, tình trạng, nguyên nhân, điều kiện dẫn đến việc người chưa thành niên phạm tội. Trên cơ sở đó đề ra những đường lối đấu tranh phòng ngừa từ xa và ngăn chặn có hiệu quả hành vi phạm tội của người chưa thành niên.

2. Tiếp nhận tin báo về tội phạm có liên quan đến áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội (phải lập biên bản theo đúng những quy định của pháp luật). Trường hợp tiếp nhận người bị bắt quả tang, người tự thú cũng phải lập biên bản theo đúng những quy định của pháp luật.

3. Kiểm tra, xác minh:


Sau khi tiếp nhận nguồn tin phản ánh về hành vi phạm tội, hành vi trốn tránh pháp luật của người thực hiện tội phạm… cơ quan CSĐT cử cán bộ điều tra, xác minh làm rò nguồn tin đó. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, điều tra viên phải khẩn trương lập kế hoạch kiểm tra nguồn tin. Trong kế hoạch cần nêu rò mục đích kiểm tra, xác minh, những biện pháp kiểm tra xác minh, lực lượng, phương tiện tham gia tiến hành, quan hệ phối hợp giữa cơ quan CSĐT với lực lượng nghiệp vụ khác trong quá trình kiểm tra xác minh. Nội dung cần kiểm tra, xác minh bao gồm:

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/06/2022