Nhận Xét Về Những Công Trình Nghiên Cứu Đã Được Công Bố

mặt kinh tế; (2) Chỉ tiêu về mặt xã hội; (3) Chỉ tiêu về môi trường, (4) Chỉ tiêu về quản lý Nhà nước với 4 mức độ: Tốt, Khá, Trung bình và Yếu. Bằng việc sử dụng kết quả khảo sát 300 khách nội địa và 300 khách quốc tế, tác giả tiến hành đánh giá và đưa ra kết luận: “phát triển du lịch thành phố Đà Nẵng đã có tính bền vững nhưng tính bền vững chưa cao”. thiết lập các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển bền vững du lịch làm cơ sở phân tích, đánh giá, bao gồm: (1) Nhân tố thuộc điều kiện kinh tế; (2) Nhân tố thuộc điều kiện xã hội; (3) Nhân tố thuộc điều kiện môi trường;

(4) Nhân tố thuộc về công tác quản lý Nhà nước. Tác giả đã vận dụng mô hình SWOT để đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu cũng như thời cơ và thách thức đối với phát triển du lịch theo hướng bền vững tại Đà Nẵng. Tạo cơ sở để xây dựng hệ thống 4 nhóm giải pháp và các kiến nghị nhằm phát triển du lịch Đà Nẵng theo hướng bền vững.

Luận án Tiến sĩ: “Phát triển bền vững du lịch tỉnh Ninh Bình trong điều kiện hiện nay” của tác giả Nguyễn Anh Dũng, năm 2018 [22]. Luận án đã tổng hợp và hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển bền vững và phát triển bền vững du lịch của một địa phương. Đề xuất mô hình lý thuyết phát triển bền vững du lịch của một địa phương cấp tỉnh. Xây dựng tiêu chí đánh giá tính bền vững du lịch của một địa phương cấp tỉnh và vai trò của các chủ thể tham gia vào hệ thống du lịch đối với phát triển bền vững du lịch. Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển bền vững du lịch của tỉnh Ninh Bình trong thời gian 2007-2016. qua đó rút ra các kết luận về ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân từ đó có giải pháp khắc phục hạn chế, đối với phát triển bền vững du lịch hiện nay của Ninh Bình, từ đó đưa ra các điểm mạnh, điểm yếu, thời cơ, thách thức,… nguyên nhân phát triển bền vững du lịch Ninh Bình. Tác giả nhận định phát triển bền vững du lịch là sự kết hợp hài hòa và tương tác qua lại của những nhóm đối tượng sau: (i) Chính quyền; (ii) tổ chức cá nhân kinh doanh du lịch, khách du lịch; (iii) cộng đồng dân cư địa phương;

(iv) chuyên gia trong lĩnh vực du lịch; (v) giới truyền thông trong và ngoài nước. Ngoài ra tác giả cũng chỉ ra nhóm các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững du lịch của một địa phương bao gồm: (1) Tình hình kinh tế chính trị - xã hội chung;

(2) Tài nguyên du lịch; (3) Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch; (4) Nguồn nhân lực của ngành du lịch; (5) Sự phát triển nhu cầu của khách du lịch; (6) Chủ trương định hướng phát triển du lịch của chính quyền ở địa phương; (7) Sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương

1.3. Nhận xét về những công trình nghiên cứu đã được công bố

Những công trình nghiên cứu nêu trên đã đi sâu phân tích lý luận chung về du lịch, nêu bật vai trò của du lịch trong quá trình phát triển Kinh tế - Xã hội; phân tích các chặng đường phát triển của kinh tế du lịch, sản phẩm du lịch, loại hình du lịch trên thế giới và tại Việt Nam. Có đề tài bàn về du lịch sinh thái bền vững. Có đề tài lại chỉ ra các nhân tố để phát triển du lịch một cách bền vững. Có đề tại lại chỉ ra mỗi quan hệ giữa phát triển kinh tế du lịch với đảm bảo an ninh quốc phòng từ đó đưa ra các giải pháp nhằm vừa phát triển du lịch vừa tăng cường được sức mạnh quốc phòng ở một địa phương. Có đề tại nghiên cứu về phát triển bền vững du lịch nhưng lại tập trung vào nghiên cứu địa lý, bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên.‌

Các công trình, bài viết đã chỉ ra những thách thức mà ngành du lịch phải đối mặt trước xu thế hội nhập sâu hơn vào các quan hệ du lịch quốc tế. Mỗi đề tài đều có những phân tích chính xác dưới các khía cạnh khác nhau của vấn đề du lịch. Do tính tổng hợp, liên ngành, liên vùng và xã hội hóa rất cao của hoạt động du lịch nên vấn đề phát triển bền vững du lịch thu hút sự quan tâm nghiên cứu từ nhiều góc độ chuyên ngành như kinh tế, môi trường, địa lý, văn hóa, lao động xã hội... Các công trình nghiên cứu trong nước về phát triển bền vững du lịch phần nhiều được tiếp cận, trình bày dưới góc độ của các chuyên ngành quản lý kinh tế, kinh tế môi trường, tài nguyên, môi trường, văn hóa.

Phần lớn các nghiên cứu về phát triển bền vững du lịch xuất phát từ góc nhìn của phát triển bền vững nói chung để hình thành nên những nội dung lý luận về phát triển bền vững du lịch . Chính vì vậy, các yếu tố có tính nguyên tắc chung, các trụ cột của phát triển bền vững cũng đều được thể hiện trong khung lý thuyết về phát triển bền vững du lịch, đó là các yếu tố, khía cạnh về kinh tế, văn hóa - xã hội và tài nguyên môi trường, sự cân đối và tương tác giữa các yếu tố đó, cân đối giữa phát triển trước mắt và phát triển lâu dài nhằm đảm bảo mục tiêu bền vững dài hạn.

Một số công trình nghiên cứu đã đưa ra nhóm các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững du lịch nhưng đa số chưa đánh giá mức độ ảnh hưởng của chúng tới phát triển bền vững du lịch. Một số công trình nghiên cứu đề xuất bộ tiêu chí rất khó khả thi trong việc sử dụng đánh giá cho các địa phương khác.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 223 trang tài liệu này.

Các công trình được thực hiện ở các địa phương khác nhau, thời gian khác nhau, quan điểm của mỗi tác giả về nhóm nhân tố ảnh hưởng tới phát triển bền vững du lịch và các tiêu chí đánh giá đều có những khía cạnh khác nhau. Đây là

những tài liệu quý giá và đóng góp về cả lý luận và thực tiễn đối với sự phát triển du lịch của mỗi địa phương nói riêng và du lịch nói chung.

Phát triển bền vững du lịch tại Thanh Hóa - 5

1.4. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu

Đến nay, vẫn chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về phát triển du lịch tại Thanh Hóa dưới góc độ phát triển ngành du lịch một cách bền vững đạt hiệu quả kinh tế. Do đó luận án của tác giả sẽ phân tích vấn đề phát triển du lịch tại Thanh Hóa theo hướng bền vững đưa ra hệ thống các cơ sở khoa học tổng hợp và chi tiết, cập nhật hơn về phát triển bền vững du lịch dưới các quan điểm mới của thế giới.‌

Đề tài xác định các vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu:

- Nghiên cứu tổng quan về phát triển bền vững du lịch.

- Nghiên cứu về các tiêu chí đánh giá phát triển bền vững du lịch, xây dựng tiêu chí đánh giá PTBVDL cấp địa phương phù hợp để đánh giá PTBVDL tại Thanh Hóa

- Nghiên cứu kinh nghiệm của một số địa phương trong và ngoài nước đối PTBVDL, qua đó rút ra các bài học kinh nghiệm cho Thanh Hóa.

- Phân tích, đánh giá thực trạng PTBVDL tại Thanh Hóa giai đoạn 2015-2019 qua đó rút ra các kết luận về những mặt đã đạt được, những mặt còn hạn chế và nêu ra nguyên nhân.

- Xây dựng mô hình nghiên cứu và đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới sự PTBVDL Thanh Hóa. Xác định mức độ ảnh hưởng từ đó có cơ sở để điều chỉnh sự tác động của mỗi nhân tố ảnh hưởng tới phát triển bền vững du lịch tại Thanh Hóa.

- Xác định các mục tiêu cụ thể về lượt khách, doanh thu, số lượng phòng, nguồn lực lao động, môi trường... trong giai đoạn tiếp theo của du lịch Thanh Hóa.

- Trên cơ sở đường lối, chủ trương của Nhà nước; phương hướng, mục tiêu phát triển du lịch tại Thanh Hóa; những hạn chế và nguyên nhân đã được phân tích thực trạng PTBVDL tại Thanh Hóa để đề xuất các giải pháp; kiến nghị với các cấp, các ngành nhằm phát triển du lịch Thanh Hóa bền vững trong thời gian 2020 -2030.

Trong các công trình đã được công bố có những nội dung liên quan đến đề tài tác giả sẽ vận dụng làm tài liệu tham khảo có tính kế thừa, chọn lọc để thực hiện luận án một cách tốt nhất.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1


Nhận thức được tầm quan trọng của phát triển du lịch, phát triển bền vững du lịch nhiều nhà nghiên cứu và tổ chức đã có những nghiên cứu chuyên sâu về phát triển du lịch và đã có những đóng nhất định cho sự phát triển của ngành.‌

Do đó chương 1 của luận án đã tập trung nghiên cứu tổng quan những công trình nghiên cứu về phát triển bền vững du lịch ở trong và ngoài nước đã công bố từ trước đến nay bao gồm: (1) Các công trình nghiên cứu đã công bố trên thế giới; (2) Các công trình nghiên cứu trong nước.

Từ việc nghiên cứu các công trình đã nghiên cứu và công bố trước đây luận án đã có những nhận xét về những công trình nghiên cứu về phát triển du lịch đã được công bố. Từ đó đã tìm ra các khoảng trống khoa học và đặt ra các vấn đề cần cần tiếp tục nghiên cứu của đề tài.

CHƯƠNG 2:

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG DU LỊCH


2.1. Cơ sở lý luận về phát triển bền vững du lịch‌‌‌

2.1.1. Khái niệm về du lịch và phát triển bền vững du lịch

2.1.1.1. Khái niệm về du lịch‌

Các nhà nghiên cứu khoa học và các nhà quản lý đề cập đến các khái niệm về du lịch nhằm xây dựng các chính sách phát triển du lịch của quốc gia, địa phương và doanh nghiệp. Khái niệm về du lịch được xem xét dưới các góc độ khác nhau, đó là trên giác độ văn hoá, cốt lõi của hoạt động du lịch là văn hoá, giác độ xã hội du lịch là một dạng nghỉ ngơi tích cực của con người, dưới giác độ kinh tế, du lịch là một ngành dịch vụ..v.v. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định rằng: “có bao nhiêu tác giả nghiên cứu về du lịch thì có bấy nhiêu khái niệm về du lịch”.‌

Theo cách tiếp cận của các đối tượng liên quan đến hoạt động DL của tác giả Nguyễn Văn Đính và Trần Thị Minh Hòa (2006) [18, tr.10-11]:

- Đối với người đi du lịch: Du lịch là cuộc hành trình và lưu trú tạm thời ở ngoài nơi lúu trú thường xuyên của cá thể, nhằm thỏa mãn các nhu cầu khác cới nhau, với mục đích hòa bình và hữu nghị. Với họ, du lịch như là một cơ hội để tìm kiếm những kinh nghiệm sống, sự thỏa mãn một số nhu cầu về vật chất và tinh thần của mình.

- Đối với người kinh doanh du lịch: Du lịch là quá trình tổ chức các điều kiện về sản xuất và phục vụ nhằm thỏa mãn, đáp ứng các nhu cầu của người đi du lịch. Các doanh nghiệp du lịch coi du lịch như là một cơ hội để bán các sản phẩm mà họ sản xuất ra, nhằm thỏa mãn các nhu cầu của khách du lịch (người đi du lịch), đồng thời thông qua đó đạt được mục đích số một của mình là tối đa hóa lợi nhuận.

- Đối với chính quyền địa phương: Trên góc độ này du lịch được hiểu là việc tổ chức các điều kiện về hành chính, về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật để phục vụ du khách. Du lịch là tổng hợp các hoạt động kinh doanh đa dạng, được tổ chức nhằm giúp đỡ việc hành trình và lưu trú tạm thời của cá thể. Du lịch là một cơ hội để bán các sản phẩm địa phương, tăng thu ngoại tệ, tăng các nguồn thu nhập từ các khoản thuế trực tiếp và gián tiếp, đẩy mạnh cán cân thanh toán và nâng cao mức sống vật chất và tinh thần cho dân địa phương.

- Đối với cộng đồng dân cư sở tại: Du lịch là một hiện tượng kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn hiện nay nó được đặc trưng bởi sự tăng nhanh khối lượng và mở

rộng phạm vi, cơ cấu dân cư tham gia vào quá trình du lịch của mỗi nước, mỗi vùng trên thế giới. Với họ hoạt động du lịch tại địa phương mình, vừa đem lại những cơ hội để tìm hiểu về nền văn hóa và phong cách của người ngoài địa phương, người nước ngoài; là cơ hội để tìm kiếm việc làm, để phát sinh và phát triển các nghề cổ truyền, các nghề thủ công truyền thống của dân tộc. Thông qua du lịch, một mặt có thể tăng thu nhập, nhưng mặt khác cũng gây ảnh hưởng đến đời sống người dân sở tại như: về môi trường, trật tự an ninh xã hội, nơi ăn chốn ở v.v...

Qua nghiên cứu và tổng hợp, khoa Du lịch và Khách sạn (Trường Đại học kinh tế Quốc dân Hà Nội) đã đưa ra một khái niệm như sau: “Du lịch là một ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động tổ chức hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hóa và dịch vụ của những doanh nghiệp, nhằm đáp ứng các nhu cầu về đi lại, lưu trú, ăn uống, tham quan, giải trí, tìm hiểu và nhu cầu khác của khách du lịch. Các hoạt động đó phải đem lại lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội thiết thực cho nước làm du lịch và cho bản thân doanh nghiệp”. [18, tr.19-20]

Trong Luật du lịch 2017 khái niệm “Du lịch” được nêu như sau: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác”. [46,tr.01]

Từ các cách tiệp cận và khái niệm trên, có thể rút ra những luận điểm cơ bản về du lịch sau:

- Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên.

- Chuyến du lịch ở nơi đến mang tính tạm thời, trong một thời gian ngắn.

- Du lịch là một dạng hoạt động đặc thù, gồm nhiều chủ thể tham gia, tạo thành một tổng thể hết sức phức tạp.

- Mục đích của chuyến du lịch là thoả mãn nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng hoặc kết hợp đi du lịch với giải quyết những công việc của cơ quan và nghiên cứu thị trường, nhưng không vì mục đích định cư hoặc tìm kiếm việc làm để nhận thu nhập nơi đến viếng thăm.

- Du lịch là thiết lập các quan hệ giữa khách du lịch với nhà cung ứng các dịch vụ du lịch, chính quyền địa phương và dân cư ở địa phương.

- Du lịch vừa có đặc điểm của ngành kinh tế, lại có đặc điểm của ngành văn hóa - xã hội.

2.1.1.2. Khái niệm về phát triển bền vững du lịch a, Khái niệm về phát triển bền vững

PTBV là một khái niệm mới về sự phát triển xuất hiện trên thế giới trong vài

thập kỉ gần đây. Khái niệm này được đưa ra khi mà mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển đã trở thành sâu sắc ở nhiều nước trên thế giới do con người đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế mà không quan tâm đúng mức tới bảo vệ môi trường. Điều đó khiến cho những tài nguyên thiên nhiên bị sử dụng quá mức đang tiến tới nguy cơ bị kiệt cạn, ô nhiễm môi trường gia tăng đe dọa sự phát triển lâu bền của nhân loại.

Đã có nhiều phát biểu về khái niệm phát triển bền vững. Một hoạt động nhằm đạt được tất cả các mục đích thực tiễn của nó và có thể tiếp tục mãi mãi được coi là hoạt động bền vững. Như vậy, phát triển bền vững chính là sự phát triển diễn ra được liên tục và tồn tại lâu dài. Có rất nhiều khái niệm được đề cập trên thế giới như sau:

Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: “Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học” [97, tr.11]

Năm 1987, báo cáo Tương lai chung của chúng ta (còn gọi là Báo cáo Brundtland) do WCED ấn hành đưa ra quan điểm của Liên hiệp quốc về phát triển bền vững, theo đó phát triển bền vững được hiểu là: “Sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai” [108, tr.43].

Năm 1991, Uỷ ban Môi trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc (UNEP, IUCN) công bố một tài liệu khác mang tên “Chăm lo cho Trái Đất”, thuật ngữ PTBV và tính bển vững được mở rộng thêm: “Phát triển bền vững là sự phát triển nâng cao chất lượng đời sống con người trong lúc đang tồn tại, trong khuôn khổ đảm bảo của các hệ thống sinh thái. Tính bền vững là một đặc điểm đặc trưng của một quá trình hoặc một trạng thái có thể duy trì mãi mãi”.[110, tr.10]

Tại hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc (WCED) tổ chức tại Rio de Janeiro năm 1992, Khái niệm PTBV được bổ sung và hoàn chỉnh thêm.

Theo đó: “Phát triển bền vững được hình thành trong sự hoà nhập, xen cài và thoả hiệp nhau của ba hệ thống tương tác lớn của thế giới: hệ tự nhiên, hệ kinh tế và hệ xã hội” [107, tr.14]. Với 27 nguyên tắc trong Tuyên bố, cùng 40 nhóm nội dung được thể hiện trong Chương trình nghị sự, quan niệm về phát triển bền vững được hoàn chỉnh hơn, không chỉ bao gồm các yếu tố tăng trưởng gắn với bảo vệ tài nguyên môi trường, mà còn đề cập đến các khía cạnh về bảo đảm sự tiến bộ xã hội cho con người trong quá trình thực hiện mục tiêu phát triển.

Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 tại Chương I, điều 3, mục 4 đã đưa ra khái niệm về PTBV như sau: “Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường.” [45,tr.1]. Đây là khái niệm có tính tổng quát, nêu bật những yêu cầu và mục tiêu quan trọng nhất của PTBV, phù hợp với điều kiện và tình hình Việt Nam.

Như vậy, có thể thấy trong các nghiên cứu cũng như các chương trình nghị sự của thế giới và ở Việt Nam, quan điểm phát triển bền vững ngày càng được bổ sung và đã đi dần đến những nhận thức chung nhất về nội hàm của khái niệm này, trong đó cho rằng phát triển bền vững là sự phát triển đạt được sự kết hợp hài hòa, chặt chẽ, hợp lý giữa cả ba khía cạnh (trụ cột) kinh tế, xã hội và môi trường.

Kinh tế bền vững: Yếu tố kinh tế đóng một vai trò không thể thiếu trong PTBV. Nó đòi hỏi sự phát triển của hệ thống kinh tế trong đó cơ hội để tiếp xúc với những nguồn tài nguyên được tạo điều kiện thuận lợi và quyền sử dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các hoạt động kinh tế được chia xẻ một cách bình đẳng. Khẳng định sự tồn tại cũng như phát triển của bất cứ ngành kinh doanh, sản xuất nào cũng được dựa trên những nguyên tắc đạo lý cơ bản. Yếu tố được chú trọng ở đây là tạo ra sự thịnh vượng chung cho tất cả mọi người, không chỉ tập trung mang lại lợi nhuận cho một số ít, trong một giới hạn cho phép của hệ sinh thái cũng như không xâm phạm những quyền cơ bản của con người.

Xã hội bền vững: Khía cạnh xã hội của PTBV cần được chú trọng vào sự phát triển sự công bằng và xã hội luôn cần tạo điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực phát triển con người và cố gắng cho tất cả mọi người cơ hội phát triển tiềm năng bản thân và có điều kiện sống chấp nhận được.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 19/03/2023