Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Phát Triển Bền Vững Du Lịch

du lịch tác giả đề xuất mức độ ghi nhận Không tốt <10% - PTBV, > 10% - Chưa BV. Ở 2 tiêu chí này được tác giả nhận thấy cần nhìn nhận trước, trong và sau khi có hiện tượng du lịch. An ninh trật tự và tệ nạn xã hội trước và sau khi có hoạt động du lịch tại các địa phương được đảm bảo rất cao, không xuất hiện các biểu hiện tiêu cực. Hơn nữa 2 tiêu chí này phản ảnh sự tác động tới tất cả các đối tượng tham gia vào hoạt động du lịch. Do đó tại 2 tiêu chí này cần để xuất mức đánh giá khắt khe, > 10% có thể phản ảnh tính không bền vững.

Tại một số tiêu chí mang tính chủ quan khác như: (21) Công tác đầu tư, tu bổ, tôn tạo di tích; (22) Tỷ lệ các khu, điểm có tài nguyên du lịch được quy hoạch, khai thác bảo tồn; (23) Tỷ lệ các điểm du lịch có xử lý thu gom rác thải. Tác giả để xuất mức đánh giá phù hợp cho từng tiêu chí cụ thể trong bảng.

2.4. Nhân tố ảnh hưởng đến phát triển bền vững du lịch

Qua các cơ sở lý thuyết của các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước, tác giả tiến hành nghiên cứu và hệ thống hóa các cơ sở lý thuyết về các nhân tố ảnh hưởng tời PTBVDL. Là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng rất cao, sự phát triển của du lịch chịu tác động, ảnh hưởng của nhiều nhân tố trong đó một số nhân tố có ảnh hưởng tới phát triển bền vững du lịch như sau:‌

2.4.1. Phát triển cơ sở hạ tầng

Theo Từ điển Kinh tế học của nhà xuất bản Kinh tế quốc dân thì: “Cơ sở hạ tầng (infrastructure) là khái niệm chung để chỉ đường bộ, đường sắt, bệnh viện, trường học, hệ thống thủy lợi, cấp nước v.v… được tích lũy từ các khoản đầu tư của cơ quan nhà nước trung ương và địa phương. Cơ sở hạ tầng đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được tỷ lệ tăng trường kinh tế cao và nâng cao mức sống chung của một nước”. [42, tr.254]‌

Có thể hiểu cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống đường xá, nhà ga, sân bay, bến cảng, đường sắt, hệ thống thông tin viễn thông, hệ thống cấp thoát nước, mạng lưới điện... Cơ sở hạ tầng phát triển sẽ là đòn bẩy thúc đẩy các hoạt động kinh tế xã hội nói chung và ngành du lịch nói riêng. Đối với ngành du lịch, nó là yếu tố tiền đề đảm bảo cho du khách tiếp cận dễ dàng với các điểm du lịch, thỏa mãn được nhu cầu thông tin liên lạc và các nhu cầu khác trong chuyến đi. Trong các yếu tố hạ tầng, hệ thống giao thông là yếu tố quan trọng nhất cho sự phát triển của du lịch vì nó liên quan trực tiếp đến việc: đảm bảo an toàn, tiện nghi cho khách du lịch, cung cấp dịch vụ vận tải với chi phí ngày càng rẻ, tăng tốc độ vận chuyển còn tiết kiệm

được thời gian đi lại, kéo dài thời gian ở lại nơi du lịch và đi tận đến cả các nơi xa xôi.

Đã có một số nghiên cứu chỉ ra mối liên hệ giữa cơ sở hạ tầng và phát triển du lịch nói chung, PTBVDL nói riêng. Theo Vũ Văn Đông (2014): “Cơ sở hạ tầng là vấn đề không thể thiếu được, là điều kiện quan trọng để phát triển du lịch và nó có ảnh hưởng lớn đến việc thu hút khách du lịch đến với địa điểm du lịch nó bao gồm: Mạng lưới giao thông vận tải, mạng lưới thông tin liên lạc và internet” [19, tr.34]. Còn theo tác giả Nguyễn Tư Lương (2015) cho rằng: “Cơ sở hạ tầng là điều kiện hàng đầu trong phát triển du lịch. Điều kiện cơ sở hạ tầng tốt sẽ tạo điều kiện dễ dàng cho việc tiếp cận các điểm du lịch cũng như các dịch vụ phục vụ nhu cầu đa dạng của khách du lịch, tạo ấn tượng tốt đối với du khách. Sự hoàn thiện theo hướng đồng bộ và hiện đại của hệ thống cơ sở hạ tầng chính là một trong các yếu tố đảm bảo cho PTBVDL” [39, tr.57-58].

Nếu điều kiện về cơ sở hạ tầng tốt, đó là điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và thực hiện PTBVDL. Nếu điều kiện về cơ sở hạ tầng hạn chế, để PTBVDL cần phải có yêu cầu bắt buộc là hoàn thiện hệ thống để đáp ứng nhu cầu phát triển du lịch. Ngoài vấn đề là tiền đề để phát triển hoạt động du lịch nói chung, PTBVDL nói riêng thì cơ sở hạ tầng còn có vai trò thúc đẩy hoạt động PTBVDL dưới góc độ: Hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn thiện cho phép phát triển du lịch ở những vùng sâu, vùng xa; cho phép giảm tải cho các điểm du lịch truyền thống, đồng thời khắc phục tính mùa vụ trong du lịch, phân phối lại thu nhập đến với cư dân địa phương. Đây là những cơ sở quan trọng cho PTBV trong du lịch. Mặt khác, sự phát triển của du lịch cũng đòi hỏi phải có sự phát triển và hoàn thiện cơ sở hạ tầng theo yêu cầu của PTBVDL.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 223 trang tài liệu này.

Qua những phân tích trên cho thấy “Phát triển cơ sở hạ tầng” và PTBVDL có mối quan hệ mật thiết, và hệ thống cơ sở hạ tầng luôn là nhân tố quan trọng cho công tác xây dựng và thực hiện PTBVDL của mỗi địa phương, quốc gia có hoạt động du lịch.

2.4.2. Phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật ngành du lịch

Phát triển bền vững du lịch tại Thanh Hóa - 8

Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, mang nội dung văn hóa sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao. Do vậy, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch không chỉ bao gồm các yếu tố riêng của ngành mà còn bao gồm các yếu tố của các ngành khác có liên quan cũng như của xã hội được huy động vào hoạt động nhằm‌

tạo ra sản phẩm và dịch vụ du lịch đa dạng, đồng bộ thỏa mãn nhu cầu của con người.

Khái niệm về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch do Nguyễn Văn Đính và Trần Minh Hòa (2006): “Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được hiểu là toàn bộ các phương tiện vật chất kỹ thuật do các tổ chức du lịch tạo ra để khai tác tiềm năng du lịch, tạo ra các sản phẩm, cung cấp và làm thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch. Chúng bao gồm hệ thống các khách sạn, nhà hàng, các khu vui chơi chơi giải trí, phương tiện vận chuyển,... và đặc biệt nó bao gồm các công trình kiến trúc bổ trợ”.[18, tr.189]. Thuộc về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch còn bao gồm tất cả những công trình mà tổ chức du lịch xây dựng bằng vốn đầu tư của mình (rạp chiếu phim, sân thể thao…). Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm du lịch. Sự tận dụng hiệu quả các tài nguyên du lịch và việc thoả mãn các nhu cầu của du khách phụ thuộc một phần lớn vào cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch.

Tác giả Vũ Văn Đông (2014) cho rằng: “Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch: bao gồm trang thiết bị, phương tiện, cơ sở cần thiết để đón tiếp khách du lịch, nơi lưu trú cho khách du lịch, khu vui chơi giải trí..là yếu tố quan trọng để thoả mãn nhu cầu nghỉ ngơi cũng như nhu cầu giải trí của du khách từ đó thu hút được nhiều khách du lịch hơn” [19, tr.34-.35].

Một nghiên cứu khác của tác giả Nguyễn Anh Dũng (2018): “Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch bao gồm các điều kiện phục vụ cho việc tổ chức các chuyến đi du lịch, các cơ sở lưu trú, các cơ sở vui chơi giải trí, các điểm du lịch, hệ thống giao thông vận tải, điện nước, các phương tiện vận chuyển, hệ thống thông tin liên lạc. Hệ thống này càng thuận tiện, hiện đại nó càng tác động mạnh tới khả năng phục vụ du khách, có vai trò quan trọng trong việc kéo dài thời gian lưu trú của du khách, tăng khả năng sức cạnh tranh của điểm đến du lịch” [22, tr.59].

Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được tạo ra lại là yếu tố quan trọng tác động đến mức độ thoả mãn nhu cầu của du khách bởi năng lực và tính tiện ích của nó. Có ba yếu tố cấu thành để tạo nên sản phẩm và dịch vụ du lịch thoả mãn nhu cầu của du khách. Đó là: tài nguyên du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, lao động trong du lịch.

Cơ sở vật chất kỹ thuật là yếu tố quan trọng, không thể thiếu. Con người bằng sức lao động của mình sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật để khai thác các giá trị của tài nguyên du lịch tạo ra dịch vụ, hàng hoá cung ứng cho du khách. Ngoài yếu tố tài nguyên thì tính đa dạng, phong phú, hiện đại, hấp dẫn của cơ sở vật chất kỹ thuật cũng tạo nên tính đa dạng, phong phú và hấp dẫn của dịch vụ du lịch. Một quốc gia, một địa phương, một doanh nghiệp muốn phát triển du lịch tốt phải có 1 hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tốt. Hệ thống này càng thuận tiện, hiện đại nó càng tác động mạnh tới khả năng phục vụ du khách, có vai trò quan trọng trong việc kéo dài thời gian lưu trú của du khách, tăng khả năng sức cạnh tranh của điểm đến du lịch. Nếu phát triển của cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch sẽ trực tiếp tăng giá trị và đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, kéo dài thời gian lưu trú, từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế. Ngoài ra một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được phát triển đảm bảo còn làm giảm tải áp lực và cường độ lên các tài nguyên du lịch khác.

Như vậy, có thể nói rằng việc phát triển của cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch là nhân tố không thể thiếu để có thể phát triển bền vững du lịch.

2.4.3. Tài nguyên du lịch

Tài nguyên du lịch, theo Luật Du lịch Việt Nam 2017: “Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên và các giá trị văn hóa làm cơ sở để hình thành sản phẩm du lịch, khu du lịch, điểm du lịch, nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch. Tài nguyên du lịch bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch văn hóa.” [46,tr.01].‌

Tài nguyên du lịch là khách thể của du lịch và là cơ sở phát triển của ngành du lịch. Mọi yếu tố có thể kích thích động cơ du lịch của khách du lịch được ngành du lịch tận dụng để sinh ra lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội đều được gọi là tài nguyên du lịch. Bất kỳ một quốc gia hay địa phương nào muốn phát triển du lịch đều phải dựa trên cơ sở khai thác các tài nuyên du lịch của bản thân, tài nguyên du lịch có sức hấp dẫn mạnh mẽ, là động lực thu hút ngày càng nhiều khách du lịch tham quan.Tài nguyên du lịch như một nguyên liệu đầu vào để cho ra các sản phẩm du lịch.

Dương Hoàng Hương (2017) cho rằng: “Tài nguyên du lịch là điều kiện, là yếu tố đầu vào quan trọng của hoạt động du lịch, đồng thời cũng là yếu tố tác động đến phát triển du lịch bền vững. Số lượng, chủng loại, cơ cấu, mức độ đa dạng nhiều hay ít, vị trí và khả năng khai thác thuận lợi hay không thuận lợi của tài

nguyên du lịch có tác động trực tiếp và rất lớn đến việc xác định định hướng, mục tiêu phát triển, lựa chọn sản phẩm du lịch đặc trưng,xác định các giải pháp phát triển du lịch; đến hiệu quả kinh tế, xã hội và khả năng phát triển của du lịch theo hướng tương ứng” [30, tr.59-60].

Như vậy, nguồn tài nguyên là nhân tố cơ bản, là một nguồn lực quan trọng để tạo ra sản phẩm, phát triển du lịch nói chung và phát triển bền vững nói riêng. Quy mô và khả năng phát triển phụ thuộc vào số lượng chất lượng, sự kết hợp các loại tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn. Quy mô nguồn tài nguyên du lịch càng lớn, chất lượng của chúng càng cao thì càng có điều kiện trở thành điểm hấp dẫn thu hút khách du lịch, mở rộng và phát triển thị trường du lịch. Hoạt động du lịch phải dựa trên các việc khai thác và sử dụng tài nguyên.

Một nguồn tài nguyên phong phú đa dạng, có trữ lượng lớn, vị trí thuận lợi, có đặc trưng, có sức hút… sẽ là một nhân tố cơ bản của phát triển bền vững du lịch.

2.4.4. Phát triển nguồn nhân lực

Trong các nguồn lực, lao động có vai trò rất quan trọng. Vai trò quyết định của lao động được thể hiện ở chỗ: Các nguồn lực như vốn, tài nguyên thiên nhiên không có sức mạnh tự thân, chúng sẽ bị cạn kiệt dần và chỉ phát huy tác dụng khi được kết hợp với nguồn lực con người. Đối với lao động, nó không bao giờ cạn kiệt, ngược lại nó có khả năng phục hồi, tự tái sinh và phát triển. Lao động là nhân tố cơ bản quyết định quá trình sử dụng, khai thác, tái tạo, phát triển các nguồn lực khác. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, nước nào biết sử dụng tiềm nãng lao động, biết phát huy nhân tố con người thì nước đó đạt được tốc độ phát triển nhanh chóng về kinh tế - xã hội.‌

Du lịch là ngành quan trọng đối với nhiều nước trên thế giới. Ngành này đòi hỏi nguồn lao động lớn với nhiều loại trình độ do tính chất đặc điểm của ngành có mức độ cơ giới hóa thấp và đối tượng phục vụ là khách hàng với nhu cầu rất đa dạng. Con người là yếu tố chính quyết định thành công chung của bất kỳ một đơn vị, tổ chức nào. Đặc biệt là trong công nghiệp dịch vụ nói chung, ngành du lịch nói riêng, vai trò của chất lượng lao động lại càng quan trọng hơn. Qua nghiên cứu tác giả Vũ Văn Đông (2014) đã chỉ ra vai trò của chất lượng nguồn nhât lực và sự phát triển của du lịch như sau: “Chất lượng nguồn nhân lực ngành du lịch là yếu tố quan trọng trong sự phát triển của du lịch. Chất lượng công tác kinh doanh chịu ảnh hưởng rất nhiều từ việc sử dụng lao động có chất lượng hay không bởi vì lao động

làm việc trong du lịch không những thực hiện công tác chuyên môn về du lịch của mình họ còn thực hiện nhiệm vụ quan trọng là trao đổi văn hoá, giao tiếp với du khách tạo cho du khách có cảm giác hứng khởi trong lúc du lịch” [19, tr.35].

Tác giả Nguyễn Tư Lương (2015) đã chỉ ra mối liên hệ giữa nguồn nhân lực và việc thực hiện phát triển bền vững du lịch: “Nguồn nhân lực ngành DL của địa phương bao gồm những người quản lý DL và những người tham gia trực tiếp vào quá trình phục vụ khách, tạo ra các dịch vụ DL. Đây là những người tham gia thực hiện những công đoạn cuối trong quá trình thực hiện phát triển du lịch bền vững. Thông qua những việc làm cụ thể của mình, đội ngũ nhân lực DL góp phần hiện thực hóa những định hướng và chủ trương của địa phương trong phát triển du lịch bền vững” [39, tr.62-63].

Một nghiên cứu khác của Nguyễn Anh Dũng (2018) cũng đã nói về quan hệ giữa nguồn lực lao động và sự phát triển bền vững: “Xã hội càng phát triển thì sự chuyên môn cho mỗi ngành nghề càng lớn, đòi hỏi người lao động phải có những khả năng chuyên sâu cho từng lĩnh vực. Nhóm lao động trong ngành du lịch cần có chuyên môn sâu cho lĩnh vực của mình góp phần đem lại sự phát triển bền vững không chỉ cho ngành du lịch mà còn nhiều ngành nghề khác” [31, tr.60].

Trong ngành du lịch, phần lớn lao động tiếp xúc trực tiếp với khách hàng và họ tham gia thực hiện các công việc nhằm đạt được các mục tiêu của đơn vị. Chất lượng dịch vụ được cung cấp cho khách hàng không chỉ phụ thuộc vào trình độ, kỹ năng tay nghề của người lao động mà còn phụ thuộc vào thái độ làm việc của họ. Chính vì vậy, các Doanh nghiệp du lịch muốn tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, cần phải nhận thức rõ hơn vai trò đội ngũ lao động phải có được một đội ngũ lao động có kiến thức sâu rộng, giỏi tay nghề và có đạo đức nghề nghiệp tốt.

Lực lượng lao động ngành du lịch trong những năm qua tăng theo sự phát triển của ngành nhưng vẫn chưa đảm bảo cho phát triển du lịch một cách bền vững, nhiều bộ phận vẫn còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, đặc biệt là trình độ lao động sử dụng được ngoại ngữ khá thấp, ngoài ra tư duy và kỹ năng làm DL của người lao động còn hạn chế, thiếu tính chuyên nghiệp…Chất lượng nguồn nhân lực thấp sẽ làm ảnh hưởng tới

Do đó, du lịch nếu muốn PTBV thì việc phát triển nguồn nhân lực là vô cùng quan trọng.

2.4.5. Tổ chức quản lí ngành du lịch

Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp với sự đan xen, kết hợp của các yếu tố kinh tế và yếu tố văn hoá, xã hội. Do vậy, quản lý nhà nước về du lịch mang đặc thù riêng thể hiện ở sự tổng hợp trong các yếu tố quản lý.‌

Vũ Văn Đông (2014) cho rằng: “Đường lối phát triển du lịch là nhân tố ảnh hưởng lớn đến việc phát triển du lịch bền vững, với một đường lối chính sách nhất định có thể kìm hãm hay thúc đẩy du lịch phát triển. Đường lối phát triển du lịch nằm trong đường lối phát triển chung, đường lối phát triển kinh tế - xã hội vì vậy phát triển du lịch cũng là đang thực hiện sự phát triển chung của xã hội” [19, tr.35]. Qua nghiên cứu trên, Thứ nhất tác giả đã chỉ ra “đường lối phát triển du lịch” có tác động cùng chiều với việc phát triển du lịch bền vững. Thứ hai, đường lối phát triển du lịch nằm trong sự phát triển chung của xã hội.

Trong một nghiên cứu khác của tác giả Dương Hoàng Hương (2017) cũng đã chỉ ra mối liên hệ như sau: “Đối với mỗi địa phương, năng lực quản lý nhà nước ở mức độ nào sẽ có tác động đến phát triển du lịch bền vững tương ứng ở mức độ đó. Một bộ máy nhà nước của địa phương được xác định là có năng lực quản lý đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch bền vững đòi hỏi phải được tổ chức hợp lý để có thể thực hiện tốt, đầy đủ các chức năng quản lý nhà nước nói chung nêu trên, đồng thời phải đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc của phát triển du lịch bền vững trong mọi khâu của quy trình quản lý, mọi nội dung của quản lý. Bộ máy đó phải có khả năng xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển du lịch thực sự có tầm nhìn dài hạn; có năng lực kiến tạo chính sách và năng lực động viên, tạo môi trường thu hút và tổ chức sử dụng hợp lý, cân đối mọi nguồn lực để hướng sự phát triển của du lịch đạt đến các mục tiêu bền vững” [18, tr.57-58].

Trên cơ sở quy định chung về quản lý nhà nước về du lịch, chính quyền các địa phương có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn phù hợp với chức năng của bộ máy chính quyền và phân cấp, phân quyền của Chính phủ. Đối với mỗi địa phương, năng lực quản lý nhà nước ở mức độ nào sẽ có tác động đến PTBVDL tương ứng ở mức độ đó. Một bộ máy nhà nước của địa phương được xác định là có năng lực quản lý đáp ứng yêu cầu PTBVDL đòi hỏi phải được tổ chức hợp lý để có thể thực hiện tốt, đầy đủ các chức năng quản lý nhà nước nói chung nêu trên, đồng thời phải đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc của PTBVDL trong mọi khâu của quy trình quản lý, mọi nội dung của quản lý.

Cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch sẽ thực hiện các vai trò của mình đối với phát triển du lịch và phát triển bền vững du lịch: Định hướng, tổ chức, quản lý, điều tiết và giám sát kiểm tra. Nhà nước thực hiện chức năng hoạch định để định hướng phát triển du lịch, bao gồm các nội dung cơ bản là hoạch định chiến lược, kế hoạch phát triển du lịch, kế hoạch xúc tiến và đầu tư du lịch, phân tích và xây dựng các chính sách du lịch, quy hoạch và định hướng chiến lược phát triển thị trường, xây dựng hệ thống pháp luật có liên quan tới du lịch. Thiết lập khuôn khổ pháp lý thông qua việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về du lịch, tạo ra môi trường pháp lý cho hoạt động du lịch và coi đó là các công cụ để tác động vào lĩnh vực du lịch. Cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch sẽ sử dụng các công cụ trên để điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trên tất cả các mặt và tổ chức quản lý về giá cả, về trật tự xã hội, vệ sinh môi trường,… góp phần tác động vào các khía cạnh của phát triển bền vững là kinh tế, xã hội, môi trường. Ngoài ra , tổ chức quản lý du lịch còn bao gồm các công tác đánh giá, kiểm tra, giám sát tình hình phát triển du lịch nhằm có sự đánh giá và điều chỉnh các nội dung trong hoạch định và định hướng phát triển du lịch trong tương lai.

Có thể thấy các cơ quan quản lý nhà nước giữ vai trò cân đối mọi nguồn lực để hướng sự phát triển của du lịch đạt đến các mục tiêu bền vững. Do đó “Tổ chức quản lí ngành du lịch” là nhân tố ảnh hưởng đến việc PTBVDL, với một hệ thống tổ chức quản lý du lịch tốt sẽ tác động cùng chiều lên sự phát triển bền vững du lịch một địa phương, đóng góp vào sự phát triển chung của toàn xã hội.

2.4.6. Chất lượng dịch vụ du lịch

Khái niệm dịch vụ du lịch theo Luật Du lịch được Quốc Hội ban hành năm 2005: “Dịch vụ du lịch là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, thông tin, hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch” [46,tr.01]. Có thể nhận thấy dịch vụ du lịch là sự kết hợp những dịch vụ và phương tiện vật chất trên cơ sở khai thác các tiềm năng du lịch nhằm cung cấp cho du khách một khoảng thời gian thú vị, một kinh nghiệm du lịch trọn vẹn và sự hài lòng. Điểm chung nhất mà dịch vụ du lịch mang lại cho du khách chính là sự hài lòng. Ở đây sự hài lòng là do được trải qua một khoảng thời gian thú vị, tồn tại trong ký ức của du khách khi kết thúc chuyến đi du lịch.Sự hài lòng của dịch vụ du lịch được khách hàng cảm nhận qua chất lượng dịch vụ.‌

Xem tất cả 223 trang.

Ngày đăng: 19/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí