Giải Pháp Phát Triển Bền Vững C C Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Giai Đoạn 2019-2025


Thứ năm, thiếu sự phối hợp và ủng hộ của các bên liên quan





72%



55%


Thiếu sự ủng hộ của quản lý cấp cao trong Thiếu sự phối hợp của các bên liên quan ngân hàng

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 205 trang tài liệu này.

Phát triển bền vững các ngân hàng thương mại Việt Nam - 18

Nguồn: Tổng hợp từ kết quả khảo sát

Sự ủng hộ của quản lý cấp cao có ý nghĩa quan trọng khi kinh doanh theo mô hình bền vững. Các chiến lược phát triển bền vững trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn phải được tích hợp vào thực tiễn hoạt động của ngân hàng, làm cơ sở ra quyết định tín dụng, đầu tư, huy động vốn ở các cấp của ngân hàng. Theo kết quả khảo sát, sự thiếu ủng hộ của quản lý cấp cao trong ngân hàng là một trong những rào cản khi thực hiện mô hình bền vững.

Khách hàng là bên liên quan quan trọng của ngân hàng, khi khách hàng hoạt động theo mô hình bền vững, sẽ thuận lợi hơn rất nhiều cho ngân hàng trong khâu quyết định tín dụng và giám sát hoạt động của khách hàng. Tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, năng lực tài chính còn hạn chế do vậy nhiều khách hàng doanh nghiệp chưa có khung quản lý ESMS, chi phí để áp dụng các biện pháp giảm thiểu tác động E&S thường khá cao. Do đó, khách hàng là các chủ đầu tư dự án thường tìm cách cắt giảm và hạn chế chi phí này trong triển khai dự án kinh doanh. Trong khi đó, hoạt động truyền thông, kiểm tra đánh giá tác động của các cơ quan chuyên môn, sự quản lý về E&S cũng như các chế tài xử phạt… còn nhiều hạn chế. Đây là kẽ hở khiến việc tuân thủ đánh giá E&S chưa thực sự được quan tâm. Các doanh nghiệp muốn tiếp cận vốn vay từ các ngân hàng đối với những dự án có nhạy cảm về yếu tố E&S cũng sẽ phải chấp nhận chi phí vốn cơ bản và chi phí hoạt động tăng cao do phải áp dụng các giải pháp để hạn chế


tác động đến E&S, do vậy sẽ làm giảm khả năng sinh lời của dự án, trong khi cơ chế hỗ trợ các dự án thực hiện giảm thiểu các động tiêu cực đến môi trường và xã hội chưa được thực hiện rộng rãi mà chủ yếu thông qua các quỹ trong chương trình hợp tác, tài trợ của chính phủ các nước phát triển cho Việt Nam.

Tại Indonesia, Bộ môi trường sẽ đánh giá, phân loại và giám sát các công ty về tính tuân thủ quy định và các tiêu chuẩn môi trường của nước này. Việc phân loại này sẽ giúp các ngân hàng dễ dàng và thuận lợi trong khâu quyết định tín dụng và giám sát khách hàng tuân thủ các vấn đề E&S, giúp các ngân hàng giảm chi phí quản lý và giảm rủi ro về vấn đề môi trường và xã hội.

Thiếu sự tham gia và liên kết chặt chẽ giữa các bên liên quan của ngân hàng đang là một trong những rào cản lớn khi chuyển sang kinh doanh theo mô hình bền vững tại các NHTM Việt Nam.

Thứ sáu, các tiêu chuẩn quốc tế về tính bền vững chưa được áp dụng phổ biến tại các N T iệt Nam

Các tiêu chuẩn quốc tế về tính bền vững như: tiêu chuẩn hiệu suất bền vững của IFC, các nguyên tắc xích đạo (EPs), Sáng kiến tài chính toàn cầu của Liên Hiệp Quốc (UNEP-FI), các nguyên tắc về tính bền vững ngân hàng của Liên minh toàn cầu về các giá trị của ngân hàng (GABV), Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế (International Organization for Standardization – ISO14001, ISO26000)...được xem là những tiêu chuẩn vàng trong đánh giá tính bền vững của một tổ chức, trong đó tiêu chuẩn của IFC và EPs được các tổ chức tín dụng áp dụng nhiều, mặc dù được xây dựng bởi các tổ chức khác nhau nhưng các tiêu chuẩn này đều chú trọng các giá trị cốt lõi của tính bền vững như hiệu quả về kinh tế, môi trường và cộng đồng.

Có 36% cán bộ trả lời ngân hàng có áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế để xây dựng chính sách quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động kinh doanh nhằm quản lý, đo lường và đánh giá các rủi ro E&S của hoạt động nội bộ, cho vay và đầu tư. Có 55% các cán bộ quản lý ngân hàng trả lời ngân hàng không áp dụng tiêu chuẩn quốc tế nào về tính bền vững. Tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế về tính bền vững cho phép các NHTM quản lý rủi ro E&S đầy đủ, minh bạch và toàn diện bao gồm đánh giá các rủi ro E&S và rủi ro tiềm năng tác động đến môi trường, các phương án giảm thiểu, các biện pháp giảm nhẹ các tác động động đến môi trường,


kiểm soát các vấn đề xã hội bao gồm vấn đề nhân quyền, lao động, chống tham nhũng...

64.00%

36.00%

Có áp dụng

Không áp dụng

Tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế về t nh ền vững của NHTM

Nguồn: Tổng hợp từ kết quả khảo sát Trong bối cảnh hệ thống ngân hàng thương mại đang nổ lực tái cấu trúc nhằm nâng cao tính ổn định, lành mạnh và hiệu quả toàn hệ thống thì việc tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế và các sáng kiến toàn cầu về tính bền vững có thể dẫn đến giảm sức cạnh tranh của ngân hàng, khách hàng có thể tìm kiếm các ngân hàng ít yêu cầu các thủ tục kiểm soát chất lượng môi trường, giảm thiểu các tác động tiêu cực đến cộng đồng do chi phí giảm thiểu tác động E&S khá cao. Do vậy, khách hàng thường tìm đến các ngân hàng có thủ tục nhanh gọn, đơn giản, không yêu cầu đầy đủ các phương án đánh giá rủi ro E&S, các biện pháp khắc phục rủi ro này. Đây cũng là lý do các ngân hàng đánh giá mức độ cạnh tranh giữa phương thức kinh doanh truyền thống và thực hiện bền vững là một trong hai thách thức lớn nhất khi thực hiện phát

triển bền vững.

Thứ bảy, iệu quả thực thi các chính sách về m i trường và hội chưa

cao

Việt Nam đã xây dựng rất nhiều các chính sách bảo vệ môi trường nhưng

hiệu quả thực thi các quy định pháp luật còn nhiều hạn chế. Nhiều dự án gây ảnh hưởng lớn đến môi trường vẫn được phê duyệt tác động môi trường, nhiều dự án không đạt các quy chuẩn môi trường theo yêu cầu vẫn tiếp tục được phép hoạt động và được chấp thuận thực thi dự án và thậm chí mở rộng quy mô sản xuất. Chẳng hạn các dự án trong khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải rất thấp, có nơi chỉ


đạt 15 - 20%, như: Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Vĩnh Phúc, Dự án khai thác mỏ sắt Thạch Khe (Ha Tĩnh) phê duyệt năm 2008, dự án nhiệt điện Vĩnh Tân 2, nhà máy Formusa (Hà Tĩnh)... đã ảnh hưởng trầm trọng đến môi trường và gây thiệt hại cho cộng đồng địa phương nơi dự án được triển khai.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Trong chương 2 luận án đã phân tích thực trạng và đánh giá phát triển bền vững hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn 2008-2017. Đánh giá mức độ bền vững của hệ thống NHTM theo các nhóm tiêu chí phản ánh tính bền vững kinh tế, xã hội và môi trường, đây là các giá trị cốt lõi của tính bền vững và được tích hợp thông qua các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Luận án đã tiến hành kiểm chứng thực nghiệm mối quan hệ giữa các nhân tố rủi ro tín dụng đến khả năng sinh lời kết quả là các tỷ lệ nợ xấu so với dư nợ và tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn tác động tiêu cực đến khả năng sinh lời của hệ thống ngân hàng thương mại.

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng năng lực tài chính của hệ thống NHTM được cải thiện rõ nét từ năm 2011 đến nay, chất lượng tài sản, thu nhập và thanh khoản của hệ thống ngân hàng được cải thiện đáng kể, hoạt động của ngân hàng ổn định và lành mạnh hơn. Các ngân hàng thương mại Việt Nam đã thực hiện rất tốt về khía cạnh xã hội như: các chính sách thu nhập, khen thưởng, đào tạo bồi dưỡng và các chính sách khuyến khích người lao động, đầu tư nhiều vào an sinh xã hội, tài trợ các hoạt động giáo dục, y tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, các hoạt động tình nguyện, từ thiện...Về khía cạnh môi trường, một số NHTM có chính sách quản lý môi trường tốt, xây dựng hệ thống đánh giá rủi ro môi trường và xã hội nhằm đánh giá, phân loại khách hàng vay vốn. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có NHTM nào phát triển theo mô hình ngân hàng bền vững, chưa cung cấp đa dạng các sản phẩm bền vững Những hạn chế về tiềm lực vốn, nhân lực đánh giá rủi ro E&S, hiệu quả thực thi các quy định về môi trường đang là những rào cản cho quá trình phát triển bền vững của hệ thống NHTM.


CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG C C NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2019-2025

3.1 CÁC CƠ HỘI, THÁCH THỨC ĐỐI VỚI PH T TRIỂN ỀN VỮNG HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM TRONG XU THẾ HỘI NHẬP

3.1.1 Xu thế phát triển bền vững hệ thống NHTM

Tài chính bền vững là một xu thế toàn cầu mà các ngân hàng và tổ chức tài chính lớn trên thế giới đang thực hiện. Năm 2003, Nguyên tắc Xích đạo về khung đánh giá rủi ro các yếu tố xã hội và môi trường của các dự án tài chính, đã được thông qua bởi các tổ chức tài chính. Tính đến tháng 1 2018 đã có 92 tổ chức tài chính tại 37 quốc gia chính thức thông qua Nguyên tắc này (Phạm Hồng Hạnh và Nguyễn Thị Thúy Hằng, 2018). Nhiều tập đoàn tài chính, ngân hàng lớn thực hiện theo Nguyên tắc này như Grupo Santander, Calvert Group, HSBC, Storebrand, UniCredit, Nationaal Groenfonds, Rabo Groen Bank, và Triodos Groenfonds…

Đối thoại ASEAN-EU về phát triển bền vững đầu tiên được tổ chức, trên cơ sở triển khai kết quả của Hội nghị Bộ trưởng ASEAN-EU lần thứ 21 nhằm xây dựng một nền tảng để thúc đẩy hợp tác thực hiện hiệu quả Chương trình nghị sự 2030 của Liên Hợp Quốc về phát triển bền vững (SDGs) và Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu. Phát triển bền vững, thu hẹp khoảng cách phát triển, thông qua thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, tiếp tục là trọng tâm ưu tiên của cả ASEAN và EU. Sáng kiến của ASEAN về tăng cường sự tương hỗ giữa Tầm nhìn ASEAN 2025 và SDGs, Sáng kiến hội nhập ASEAN, Kế hoạch tổng thể về kết nối ASEAN được ghi nhận là công cụ quan trọng để thực hiện các SDGs. Các đại biểu cũng ghi nhận tiềm năng lớn trong hợp tác song phương và đa phương giữa ASEAN và EU đối với các vấn đề toàn cầu về phát triển bền vững, trong đó, EU đã tăng đáng kể đóng góp vào Quỹ hợp tác phát triển lên tới 170 triệu Euro giai đoạn 2014-2020 để hỗ trợ các hoạt động hội nhập ASEAN, bên cạnh sự hỗ trợ tài chính hơn 2 tỷ Euro thông qua kênh song phương cùng thời gian trên.

Phát triển bền vững đóng vai trò quan trọng trong chương trình nghị sự quốc gia của các nhà hoạch định chính sách ở các nước ASEAN, với các chủ đề chung và vai trò riêng biệt đặc trưng cho ngành tài chính. Cả 6 quốc gia ASEAN là Inđônêxia, Malaixia, Philipin, Singapo, Thái Lan, Việt Nam đều đã đưa ứng phó với


biến đổi khí hậu và các mục tiêu phát triển bền vững (SDG) vào chương trình nghị sự chính sách quốc gia, cũng như xây dựng các chiến lược tăng trưởng xanh. Các tổ chức tài chính được xác định đóng vai trò then chốt trong việc cấp vốn cho các công nghệ xanh, thúc đẩy các lĩnh vực xanh và phát triển các sản phẩm bền vững phù hợp với các mục tiêu phát triển bền vững. Ở Malaixia và Thái Lan, vai trò của ngành tài chính trong việc đạt các mục tiêu bền vững đã được chính thức công nhận trong các kế hoạch phát triển quốc gia. (Phạm Hồng Hạnh và Nguyễn Thị Thúy Hằng, 2018).

Báo cáo toàn cầu về tiến bộ trong cải cách hướng tới tài chính bền vững do mạng lưới Ngân hàng Bền vững (SBN) được công bố đầu năm 2018, cho thấy các nước đang phát triển đã trở thành lực lượng chủ chốt thúc đẩy phát triển và đối phó với biến đổi khí hậu. Hiện nay, có 34 quốc gia thành viên của SBN, với tổng tài sản của các NHTM đạt 42.6 nghìn tỷ USD chiếm 85% tổng tài sản ngân hàng ở các thị trường mới nổi đã đề xuất và thực hiện các cải cách trong ngành ngân hàng nhằm thúc đẩy tài chính bền vững. Việt Nam, cùng với bảy quốc gia khác là Bangladesh, Braxin, Trung Quốc, Colombia, Inđônêxia, Mông Cổ và Nigeria, được đánh giá ở trong nhóm nước tích cực triển khai những cải cách quy mô lớn, ban hành các chính sách và quy định căn bản để tăng cường tài chính bền vững và có cơ chế đo lường kết quả đạt được (SBN, 2018). Những cải cách này đòi hỏi các ngân hàng phải đánh giá và báo cáo các rủi ro về môi trường và xã hội trong hoạt động cho vay của mình và đưa ra các ưu đãi nhằm khuyến khích cho vay các dự án xanh.

3.1.2 Định hướng phát triển bền vững các NHTM Việt Nam đến năm 2025

Trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều nổ lực trong việc cải cách và ban hành chính sách thúc đẩy tài chính bền vững, bao gồm Luật Thuế bảo vệ môi trường (2010), ưu đãi thuế cho doanh nghiệp xanh, phí xanh và mua sắm xanh, kế hoạch hành động chiến lược tăng trưởng xanh cho hệ thống tài chính bởi MoF (2015). Chỉ thị 03 năm 2015 nhằm thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và thực hiện quản lý E&S trong hoạt động cấp tín dụng, bao gồm các chương trình đào tạo về danh sách E&S theo từng ngành cụ thể, cung cấp hướng dẫn cụ thể cho các ngân hàng trong việc quản lý rủi ro E&S trong 10 lĩnh vực có nguy cơ cao. Quyết định số 403 QĐ-TTg chỉ ra rằng, hoạt động cấp tín dụng của ngành ngân hàng cần chú trọng đến vấn đề bảo vệ môi trường, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên,


năng lượng; cải thiện chất lượng môi trường và bảo vệ sức khỏe con người, đảm bảo phát triển bền vững. Thực hiện rà soát, điều chỉnh và hoàn thiện thể chế tín dụng cho phù hợp với mục tiêu tăng trưởng xanh; tập trung nguồn lực để cấp tín dụng cho các dự án, phương án sản xuất kinh doanh thân thiện với môi trường và xã hội, góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp, qua đó thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.

Đề án cơ cấu lại các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016- 2020 và Nghị quyết 42 được Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng tạo điều kiện cho hệ thống ngân hàng xử lý nợ xấu đồng bộ và hiệu quả. Nợ xấu của hệ thống ngân hàng được kiểm soát duy trì dưới 3%, đảm bảo hoạt động của các tổ chức tín dụng an toàn, lành mạnh.

Quyết định số 76 2016 QĐ-TTg 11/1/2016 phê duyệt chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Mục tiêu tổng quát là từng bước thay đổi mô hình sản xuất và tiêu dùng theo hướng nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài nguyên và năng lượng; tăng cường sử dụng các nguyên vật liệu, năng lượng tái tạo, sản phẩm thân thiện môi trường; giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế chất thải; duy trì tính bền vững của hệ sinh thái tại tất cả các khâu trong vòng đời sản phẩm từ khai thác, cung ứng nguyên liệu đến sản xuất chế biến, phân phối, tiêu dùng và thải bỏ sản phẩm. Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững đã đặt ra những nhiệm vụ chủ yếu và các giải pháp cụ thể nhằm đạt được các mục tiêu phát triển bền vững tầm nhìn đến năm 2030.

Năm 2018, NHNN đã ban hành Quyết định số 1604 QĐ-NHNN về việc phê duyệt đề án phát triển Ngân hàng xanh tại Việt Nam với lộ trình thực hiện gồm 2 giai đoạn: giai đoạn 1 (2018-2020), giai đoạn 2 (2021-2025), xây dựng khung chiến lược về mô hình ngân hàng xanh với 5 cấp độ từ thấp đến cao, mức độ cao nhất ngân hàng sẽ có những sáng kiến cân bằng sinh thái chủ động. Đề án chỉ rõ mục tiêu phấn đấu năm 2025 là 100% ngân hàng xây dựng được quy định nội bộ về quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng; 100% các ngân hàng thực hiện đánh giá rủi ro môi trường xã hội trong hoạt động cấp tín dụng; Áp dụng các tiêu chuẩn về môi trường cho các dự án được ngân hàng cấp vốn vay; Kết hợp


đánh giá rủi ro môi trường như một phần trong đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng. Ít nhất 10-12 ngân hàng có đơn vị/ bộ phận chuyên trách về quản lý rủi ro môi trường và xã hội; 60% ngân hàng tiếp cận được nguồn vốn xanh và triển khai cho vay các dự án tín dụng xanh. Đề án cũng xác định các giải pháp để thực hiện được mục tiêu phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam.

Đề án cũng đưa ra giải pháp phát triển ngân hàng xanh ở Việt Nam. Trong đó, nhóm giải pháp đối với NHNN trước hết là xây dựng và ban hành hướng dẫn để định hướng phát triển ngân hàng xanh cho các TCTD. Ban hành hướng dẫn về hoạt động ngân hàng xanh, tín dụng xanh trong đó nêu rõ định nghĩa của hoạt động tín dụng xanh, ngân hàng xanh; các tiêu chí đánh giá ngân hàng xanh trong đó bao gồm: Hệ thống các quy định nội bộ về quản lý rủi ro môi trường xã hội; Mô hình tổ chức để triển khai các hoạt động quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong quy trình cấp tín dụng; Tỷ trọng vốn tín dụng cho các ngành, lĩnh vực xanh cần ưu tiên hỗ trợ trong danh mục dự án xanh do NHNN ban hành; Chất lượng đào tạo, tuyên truyền, phổ biến nhằm nâng cao nhận thức và năng lực của cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng trong phát triển bền vững, tín dụng xanh, ngân hàng xanh.

Đồng thời, NHNN ban hành hướng dẫn xây dựng báo cáo về ngân hàng xanh trong đó chi tiết các chỉ tiêu và yêu cầu báo cáo bảo đảm những nội dung về: Quản trị và cơ cấu tổ chức, hệ thống chính sách và năng lực tài chính, quản lý quy trình, kiểm soát nội bộ và công bố thông tin; Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện Sổ tay hướng dẫn đánh giá rủi ro môi trường và xã hội cho 11 các ngành kinh tế còn lại trong tổng số 21 nhóm ngành chưa có hướng dẫn trong hoạt động cấp tín dụng của TCTD; Định kỳ cập nhật Danh mục dự án xanh.

Bên cạnh đó, Đề án cũng nêu rõ giải pháp xây dựng và ban hành các chính sách ưu đãi, cơ chế hỗ trợ cho các TCTD để khuyến khích phát triển ngân hàng xanh, như xem xét ưu tiên nguồn vốn cho phát triển tín dụng xanh thông qua chính sách tái cấp vốn/tái chiết khấu trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc không ảnh hưởng đến việc điều hành chính sách tiền tệ và mục tiêu lạm phát trong từng thời kỳ; Xem xét ưu tiên tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi từ các tổ chức quốc tế, các đối tác phát triển thông qua NHNN cho các NHTM có tỷ trọng cho vay tín dụng xanh cao.

Năm 2019, NHNN ban hành Quyết định số 34 QĐ-NHNN về việc ban hành

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 28/11/2022