Giải Pháp Phát Triển Bền Vững Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam


chương trình hành động của ngành ngân hàng thực hiện chiến lược phát triển ngành ngân hàng việt nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Mục đích của chương trình hành động nhằm ba mục tiêu. Thứ nhất, Chương trình hành động nhằm triển khai chỉ đạo của NHNN đến các đơn vị thuộc ngành Ngân hàng trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp xác định trong Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng để đạt được mục tiêu và theo đúng quan điểm đã đề ra tại Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng. Thứ hai, Chương trình hành động là căn cứ cho các đơn vị, Vụ, Cục trực thuộc NHNN, các NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các doanh nghiệp do NHNN quản lý, các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Hiệp hội ngân hàng, Hiệp hội Quỹ tín dụng nhân dân xây dựng hoặc điều chỉnh các Chiến lược, kế hoạch, chương trình hành động theo chức năng để chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cụ thể của đơn vị mình mà Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đã định hướng. Thứ ba, Chương trình hành động là căn cứ để tổ chức kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết và đánh giá, rút kinh nghiệm việc tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng; đồng thời là căn cứ để phối hợp với các cơ quan liên quan đề xuất, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét điều chỉnh mục tiêu, nội dung Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng trong trường hợp cần thiết.

3.2 GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

3.2.1 Nâng cao mức độ ổn định và lành mạnh của các ngân hàng thương mại

3.2.2.1 Tăng vốn chủ sở hữu của NHTM

Mục tiêu của tăng vốn chủ sở hữu của các ngân hàng nhằm đáp ứng yêu cầu và quy định về an toàn và mở rộng hoạt động kinh doanh ngân hàng.

Theo Thông tư 36 2014 TT-NHNN và thông tư số 19 2017 TT-NHNN, có khá nhiều chỉ tiêu giới hạn được tính toán theo vốn tự có của ngân hàng như tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) 9%, mức cấp tín dụng cho một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có và một nhóm khách hàng có liên quan không quá 25% vốn tự có; tỷ lệ góp vốn mua cổ phần không được vượt quá 40% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của ngân hàng…Như vậy, một ngân hàng muốn mở rộng hạn mức tín dụng cho khách hàng hoặc tăng nguồn vốn đầu tư góp vốn thì buộc phải tăng thêm vốn điều


lệ. Bên cạnh đó, việc gia tăng vốn điều lệ nhằm đầu tư vào nâng cao hệ thống công nghệ thông tin, cơ sở vật chất và hệ thống quản trị rủi ro.

Hiện nay các ngân hàng thương mại đều đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% theo quy định hiện hành. Tuy nhiên, theo quy định thông tư 41 2016 TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước có hiệu lực thi hành đầu năm 2020, cách xác định hệ số CAR của các ngân hàng sẽ giảm mạnh so với hiện tại. Tổng rủi ro tín dụng theo thông tư 41 bao gồm tổng tài sản tính theo rủi ro tín dụng và tổng tài sản tính theo rủi ro tín dụng đối tác. Do vậy, để đáp ứng quy định về hệ số CAR theo thông tư này, các ngân hàng cần phải có kế hoạch tăng vốn chủ sở hữu đến đầu năm 2020. Tăng năng lực vốn chủ sở hữu trong giai đoạn hiện nay có nhiều ý nghĩa đối với các NHTM Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu đủ vốn theo Basel đảm bảo an toàn cho khách hàng, cổ đông và các nhà đầu tư khi có rủi ro. Bên cạnh đó, tăng năng lực nguồn vốn nhằm đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ, cung cấp các sản phẩm mới thân thiện với môi trường, nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Phát triển bền vững đòi hỏi ngân hàng phải có nguồn lực vốn mạnh, đặc biệt là giai đoạn đầu phát triển theo mô hình này, NHTM phải đầu tư vào công nghệ hiện đại, đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cơ cấu mô hình quản trị nhằm phù hợp với thông lệ quốc tế và đảm bảo thực thi hệ thống ESMS hiệu quả, các chi phí cho truyền thông, quảng bá, đào tạo nâng cao nhận thức cho khách hàng về ngân hàng bền vững…

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 205 trang tài liệu này.

Để tăng nguồn vốn chủ sở hữu các NHTM cần có biện pháp trong ngắn hạn, trung và dài hạn, bao gồm: tăng vốn bằng lợi nhuận giữ lại, nguồn từ các quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, phát hành thêm cổ phiếu, tăng vốn góp từ các cổ đông chiến lược, phát hành chứng chỉ tiền gửi kỳ hạn dài, phát hành trái phiếu chuyển đổi có thể chuyển thành vốn góp, huy động thêm các đối tác chiến lược, phát hành các chứng khoán trên thị trường tài chính quốc tế…

Hiện nay, các nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt rút vốn tại nhiều tổ chức tín dụng, gây áp lực lên tỷ lệ CAR và năng lực vốn chủ sở hữu. Như vậy, trong thời gian tới các NHTM Việt Nam cần có những phương án, kế hoạch tăng nguồn vốn của mình nhằm đảm bảo yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn theo thông lệ quốc tế và đảm bảo nguồn vốn cho phát triển bền vững. Việc duy trì nguồn vốn chủ sở hữu đủ lớn nhằm giúp ngân hàng phát triển hoạt động kinh doanh, như mở thêm các chi nhánh,

Phát triển bền vững các ngân hàng thương mại Việt Nam - 19


đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ cung cấp, góp vốn liên doanh, liên kết, mở các công ty con...Mặt khác, tăng vốn chủ sở hữu của các ngân hàng còn có ý nghĩa đảm bảo khả năng chống đỡ các tổn thất khi gặp rủi ro góp phần bảo vệ khách hàng, các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, để hướng đến phát triển bền vững, các NHTM cần có nguồn vốn đủ lớn nhằm tài trợ cho các dự án xanh như năng lượng tái tạo, công nghệ sạch, các dự án chống biến đổi khí hậu, công nghệ sinh học…

Các giải pháp tăng vốn cho các NHTM trong thời gian tới như sau:

Thứ nhất, nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro, nhằm giảm chi phí về dự phòng rủi ro. Dự phòng rủi ro là khoản chi phí khá lớn trong hoạt động của ngân hàng, do vậy nâng cao năng lực quản lý rủi ro nhằm giảm chi phí.

Thứ hai, nâng cao khả năng liên kết với các nhà đầu tư lớn bằng cách bán cổ phần cho các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài vì các nhà đầu tư này có tiềm lực vốn mạnh và năng lực quản trị tốt.

Thứ ba, tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi trung và dài hạn cho các nhà đầu tư. Để thực hiện thành công giải pháp tăng vốn này, các NHTM cần phải tính toán mức lãi suất phù hợp nhằm thu hút các nhà đầu tư vừa cạnh tranh với các công ty tài chính.

Thứ tư, cung cấp các sản phẩm, dịch vụ mới nhằm gia tăng tiện ích cho khách hàng và tăng tỷ trọng thu nhập từ hoạt động dịch vụ, giảm dần phụ thuộc vào hoạt động tín dụng.

Thứ năm, tăng vốn chủ sở hữu thông qua phân chia cổ tức bằng cổ phiếu hay phát hành cổ phiếu thưởng cho cổ đông từ thặng dư vốn và lợi nhuận giữ lại sẽ gia tăng vốn tự có cho ngân hàng. Mặc dù, việc phân chia cổ tức bằng tiền mặt ít đi, hoặc giữ lại toàn bộ lợi nhuận thông qua phân chia bằng cổ tức sẽ có nhiều cổ đông không hài lòng. Tuy nhiên, để tăng năng lực tài chính, nâng cao khả năng cạnh tranh, việc cấp bách là ngân hàng phải tăng năng lực về vốn.

Thứ sáu, kêu gọi thêm vốn từ các cổ đông hiện hữu nhằm bảo toàn cơ cấu cổ đông của ngân hàng. Tuy nhiên, không phải tất cả các ngân hàng đều thực hiện được giải pháp này. Các ngân hàng hoạt động hiệu quả, lợi nhuận cao thì cổ đông hiện hữu sẽ có khả năng bỏ thêm vốn vào ngân hàng, còn các ngân hàng hiệu quả thấp sẽ khó thực hiện giải pháp này.


Riêng đối với NHTMNN, Chính phủ nên bơm thêm vốn cho ngân hàng nhằm duy trì tỷ lệ CAR theo chuẩn Basel II và đạt mục tiêu có một số ngân hàng thương mại nhà nước có quy mô ngang tầm khu vực.

Hiện nay nhà nước đang nắm giữ cổ phần rất lớn tại một số ngân hàng chiếm tỷ lệ trên 64% đến 95,28%, trong thời gian tới nên giảm tỷ lệ sở hữu nhà nước bằng cách bán cổ phần cho các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài có tiềm lực vốn lớn và hoạt động hiệu quả.

3.2.2.2 Nâng cao chất lượng tài sản của NHTM

Trong thời gian tới cần có những biện pháp xử lý hiệu quả nợ xấu của hệ thống NHTM Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng tài sản và năng lực tài chính của NHTM. Xử lý nợ xấu từ phía NHTM, thường xuyên đánh giá, phân loại đúng chất lượng và khả năng thu hồi của các khoản nợ của khách hàng. Thực hiện các biện pháp cơ cấu lại nợ, tiếp tục hỗ trợ vốn để doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, khôi phục sản xuất kinh doanh. Kiểm soát và tiết giảm chi phí hoạt động, trong đó chú trọng các chi phí liên quan đến môi trường trong hoạt động nội bộ, sử dụng tối ưu nguồn lực. Nợ xấu so với vốn chủ sở hữu của NHTM hiện khá cao, các ngân hàng cần phải tăng cường trích lập và sử dụng quỹ dự phòng để xử lý tận gốc nợ xấu. Hoàn thiện bộ máy, tăng cường năng lực quản trị rủi ro, nhất là rủi ro tín dụng, nhằm hạn chế nợ xấu mới phát sinh, đẩy mạnh thu hồi nợ, xử lý dứt điểm các khoản nợ đọng, nợ kéo dài. NHTM cần có những biện pháp phối hợp với VAMC để thực hiện hiệu quả xử lý tận gốc nợ xấu, bao gồm: xác định các tiêu chí để NHTM bán cho VAMC, thống nhất giá bán nợ xấu phù hợp, phân chia rủi ro về các khoản nợ xấu nếu không xử lý được giữa NHTM và VAMC.

Có nhiều quy định ban hành và các biện pháp nâng cao chất lượng tài sản của NHTM trong những năm gần đây, Chỉ thị số 02/CT-NHNN năm 2017 về tăng cường bảo đảm an toàn hệ thống các TCTD, tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống các TCTD, vấn đề xử lý nợ xấu được nhấn mạnh trong Chỉ thị này. Nghị quyết số 27/NQ-CP ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 01/11/2016 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII và Nghị quyết số 24/2016/QH14 ngày 08/11/2016 của Quốc hội về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020. Nghị quyết 42/2017/QH14 là


cơ sở pháp lý quan trọng để Chính phủ có khuôn khổ tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu, xử lý tài sản đảm bảo. Điểm mới trong Nghị quyết 42/2017/QH14 của Quốc hội về xử lý nợ xấu là các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán xử lý nợ xấu được bán nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu công khai, minh bạch theo giá thị trường có thể cao hơn hoặc thấp hơn dư nợ gốc của khoản nợ, đồng thời tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu được bán nợ xấu cho pháp nhân, cá nhân bao gồm cả pháp nhân, cá nhân không có chức năng kinh doanh mua bán nợ.

Xử lý nợ xấu của hệ thống NHTM trong những năm qua có chuyển biến tích cực từ hoàn thiện cơ chế chính sách đến việc triển khai xử lý nợ xấu của các ngân hàng, nợ xấu đã giảm về tỷ lệ tuy nhiên chưa giảm về quy mô và tỷ lệ nợ nhóm 4 và 5 có xu hướng tăng trong năm 2017. Các giải pháp xử lý tận gốc nợ xấu của hệ thống ngân hàng trong thời gian tới gồm:

Thứ nhất, Hoàn thiện khung pháp lý về thị trường mua bán nợ. Thị trường mua bán nợ tại Việt Nam còn nhiều hạn chế, như chủ thể tham gia thị trường bị giới hạn theo quy định của pháp luật, việc thu giữ và xử lý tài sản bảo đảm có nhiều vướng mắc pháp lý, quyền và trách nhiệm của người mua, bán nợ chưa được quy định rõ ràng. Hiện nay, việc mua bán nợ có VAMC, Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC) của Bộ Tài chính là hoạt động tích cực, 28 công ty mua bán nợ (AMC) của các ngân hàng thương mại có nguồn lực rất hạn chế và hầu hết chỉ xử lý nợ nội bộ cho chính các ngân hàng mẹ. Do vậy cần phải hoàn thiện khung pháp lý về thị trường mua bán nợ về đa dạng chủ thể tham gia, tiếp tục tăng cường năng lực vốn cho VAMC, DATC, tối ưu hóa danh mục tài sản và bán với giá hợp lý tăng khả năng phục hồi tiền mặt từ các khoản nợ này, đây là những giải pháp thúc đẩy thị trường mua bán nợ hoạt động hiệu quả.

Thứ hai, NHNN có biện pháp quyết liệt để xác định đúng và đầy đủ về quy mô và cơ cấu của nợ xấu, bao gồm cả các khoản nợ xấu tiềm ẩn và buộc các ngân hàng có những giải pháp xử lý triệt để nợ xấu, bao gồm cả việc bán các khoản nợ xấu với mức giá phù hợp.

Thứ ba, chứng khoán hóa nợ xấu. Thực hiện các biện pháp chứng khoán hóa nợ xấu, cơ cấu lại các khoản nợ và phát hành cổ phiếu bán cho các công ty, xử lý nợ


xấu qua liên kết, liên doanh với các công ty nhằm với mục đích chia sẽ rủi ro và tăng khả năng thu hồi vốn từ việc xử lý các khoản nợ này. Định giá, phân loại các khoản nợ xấu và bán trên thị trường chứng khoán.

Thứ tư, đối với các ngân hàng yếu kém, chất lượng tài sản và thanh khoản kém, cần có những biện pháp mạnh như buộc sáp nhập hoặc đóng cửa.

3.2.2.3 Nâng cao chất lượng quản trị, điều hành của NHTM, áp dụng các phương thức quản lý theo các chuẩn mực quốc tế

Tăng cường năng lực quản trị, điều hành của NHTM phù hợp các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế. Mô hình quản trị của ngân hàng phải đảm bảo tính độc lập về quyền hạn và trách nhiệm, nghĩa vụ của Hội đồng quản trị (HĐQT), Ban điều hành (BĐH), Ban kiểm soát nhằm đảm bảo lợi ích của tất cả các bên liên quan trong hoạt động ngân hàng. Cơ cấu của BĐH vừa đảm bảo tính độc lập với HĐQT nhằm đảm bảo tách bạch rõ ràng giữa quyền sở hữu và quyền điều hành, vừa tận dụng được năng lực quản trị, kinh nghiệm của các thành viên liên quan của ngân hàng. Tùy vào mỗi ngân hàng sẽ xác định các bên liên quan khác nhau, thông thường các bên liên quan chủ yếu của NHTM gồm: cổ đông, nhà cung cấp, khách hàng, ban điều hành và cơ quan quản lý. Bên cạnh đó, cần tách bạch rõ quyền hạn của ban kiểm soát và HĐQT, theo đó ban kiểm soát phải có khả năng bảo vệ quyền và lợi ích của các bên liên quan khác khi hoạt động của ngân hàng có nguy cơ gây tổn hại đến lợi ích của họ. Ngoài ra Ban kiểm soát phải có khả năng ngăn ngừa và kiểm soát việc xung đột lợi ích của các bên liên quan. Để thực hiện phát triển bền vững, NHTM cần phải minh bạch, khách quan trong công bố thông tin, nâng cao chất lượng giải trình theo nguyên tắc minh bạch của ISO2600. Đặc biệt là phải minh bạch trong các quyết định và các hoạt động của mình có ảnh hưởng đến xã hội và môi trường. NHTM phải trình bày một cách rõ ràng, chính xác, đầy đủ một cách hợp lý các chính sách, quyết định và các hoạt động của mình, bao gồm cả sự hiểu biết và các tác động của ngân hàng đối với xã hội và môi trường.

Chất lượng quản trị, điều hành là nhân tố cốt lõi để phát triển bền vững, và hệ thống NHTM cần xây dựng một cơ cấu quản trị vững mạnh trên cơ sở tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam và hướng đến tuân thủ các nguyên tắc bền vững của các tổ chức quốc tế.


Kiện toàn bộ máy quản trị, thực hiện minh bạch về công bố thông tin và trách nhiệm giải trình là yếu tố then chốt khi thực hiện theo mô hình ngân hàng bền vững. Hiện nay nhiều nhà đầu tư quốc tế đánh giá về chất lượng hệ thống quản trị, nhân sự của ngân hàng ngày càng trở thành yếu tố quan trọng khi lựa chọn để hợp tác kinh doanh. Mục tiêu về an toàn tài chính, tránh những rủi ro môi trường và xã hội, lợi ích của các bên liên quan bao gồm cổ đông, nhà điều hành cấp cao, khách hàng, nhà cung cấp, cơ quan quản lý đã trở thành mối quan tâm lớn, then chốt thay vì tối đa hóa lợi nhuận như trước đây. Minh chứng cho điều này là các quỹ đầu tư xanh, đầu tư bền vững ngày càng gia tăng về cả quy mô và khối lượng.

3.2.2 Hoàn thiện hệ thống quản lý rủi ro m i trường và xã hội

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống ESMS là một trong những điều kiện quan trọng và phải được thực hiện ngay khi phát triển theo mô hình ngân hàng bền vững nhằm loại bỏ các dự án ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường và xã hội. Tuy nhiên, chỉ một số ít ngân hàng thương mại Việt Nam đã xây dựng hệ thống này. Việc xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội của ngân hàng còn gặp nhiều thách thức như: thiếu năng lực thể chế, thiếu thông tin về khách hàng và cam kết từ đội ngũ quản lý cấp cao, năng lực đánh giá rủi ro của các cán bộ ngân hàng còn gặp nhiều hạn chế...Đây là những rào cản lớn ngân hàng cần phải khắc phục nhằm hướng đến phát triển bền vững. Việt Nam chưa có khung chính sách quản lý rủi ro môi trường của quốc gia, do vậy NHTM đã xây dựng hệ thống ESMS nhờ vào sự tư vấn và hỗ trợ chủ yếu của các tổ chức quốc tế. Trong thời gian tới để phát triển theo chiến lược bền vững, NHNN cần phải xây dựng khung chính sách quản lý rủi ro môi trường và xã hội bắt buộc các NHTM đều phải thực hiện, dựa vào khung chính sách này, các NHTM có thể áp dụng hoặc phát triển tốt hơn hệ thống ESMS nhằm quản lý hiệu quả các rủi ro E&S, tiến tới cung cấp các sản phẩm tài chính xanh và bền vững.

Phát triển theo mô hình ngân hàng xanh và hướng đến bền vững, NHTM cần xây dựng được hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội nhằm tích hợp rủi ro về E&S nhằm đánh giá, phân loại các dự án trước khi ra quyết định tín dụng. Hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội của ngân hàng hỗ trợ cho việc đánh giá các rủi ro môi trường và xã hội của các dự án vay vốn tại ngân hàng. Ngân hàng bền vững


sẽ đánh giá, phân loại, lọc và loại bỏ các dự án có tác động xấu đến môi trường. Để xây dựng và hoàn thiện hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội, nghiên cứu đề xuất lộ trình gồm ba giai đoạn, giai đoạn I là xây dựng hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động nội bộ, giai đoạn II, quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cho vay, giai đoạn III, cung cấp các sản phẩm tài chính xanh và bền vững.


Giai đoạn I: Xây dựng hệ thống quản lý m i trường nội bộ

Giai đoạn II: Quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cho

vay

Giai đoạn III: Cung cấp các sản phẩm tài chính xanh và bền vững

Giai đoạn I, Xây dựng hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động nội bộ, bao gồm: thực hiện các biện pháp sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên trong nội bộ ngân hàng, phát triển ngân hàng trực tuyến, nâng cao nhận thức về môi trường và năng lượng cho cán bộ nhân viên ngân hàng, nâng cao năng lực đánh giá rủi ro môi trường và xã hội cho nhân viên tín dụng, tuyên truyền và nâng cao nhận thức của khách hàng về lợi ích của phát triển bền vững, kết hợp rủi ro môi trường trong quản lý quan hệ khách hàng.

Giai đoạn II, quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cho vay: lập các chi nhánh, văn phòng xanh, tiết kiệm năng lượng, xây dựng kế hoạch và hướng dẫn quản lý rủi ro môi trường và xã hội, đánh giá và giám sát rủi ro môi trường các hoạt động kinh doanh của khách hàng, lọc và loại bỏ các đề nghị vay vốn có hại cho môi trường, khuyến khích khách hàng giảm những tác động không có lợi cho môi trường trong hoạt động kinh doanh.

Giai đoạn III, ngân hàng hoàn thiện về mô hình quản trị, xây dựng và vận hành quản lý rủi ro môi trường và xã hội, ứng dụng công nghệ hiện đại vào hoạt động, tiến tới cung cấp các sản phẩm tài chính xanh và bền vững. Giai đoạn này NHTM có những nổ lực ứng dụng các sáng kiến toàn cầu về tính bền vững, giám sát việc tuân thủ của khách hàng về các vấn đề E&S, có các biện pháp xử lý nghiêm khách hàng không tuân thủ các quy định và có hành động tổn hại đến môi trường.

Xem tất cả 205 trang.

Ngày đăng: 28/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí