Cái tôi trữ tình trong thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, hoàng Việt Hằng - 17


PHẦN KẾT LUẬN

Trong dòng chảy thi ca Việt Nam sau năm 1975 cũng như trong nền thi ca đương đại, sự xuất hiện của các cây bút nữ đã đóng góp cho nền văn chương nước nhà sự phong phú đa dạng, nhiều mầu sắc, với những cá tính sáng tạo độc đáo. Thơ của họ đã gây ấn tượng cho người đọc, được dư luận khẳng định và tạo nên những sức hút đối với các nhà nghiên cứu và phê bình trong thời gian gần đây. Chịu ảnh hưởng của nền thơ ca truyền thống, có những nét phá cách và có nhiều thể nghiệm mới mẻ; Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng đã tạo được dấu ấn sâu đậm trong nỗ lực đổi mới thi ca. Các chị luôn luôn có khát vọng bung phá, tìm tòi cho mình một hướng sáng tạo mới mẻ để làm phong phú, đa dạng hơn cho thơ ca truyền thống. Việc nghiên cứu cái tôi trữ tình trong thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng, chúng tôi muốn góp một tiếng nói, một cách nhìn nhận, đánh giá về thơ các chị để từ đó có cái nhìn bao quát hơn về những đóng góp của các nhà thơ nữ vào trong tiến trình phát triển của thơ ca Việt Nam đương đại.

Thơ nữ thời kỳ đổi mới vẫn tiếp tục khai thác hướng đề tài nói về thân phận người đàn bà, về tình yêu và lòng thủy chung son sắt, tình mẹ con, bầu bạn và những người lao động nghèo khổ,lam lũ. Những nhà thơ nữ còn đi sâu khai phá những đề tài mới đầy biến động của đời sống, những va đập của đời thường, niềm khát khao mãnh liệt hướng tới những cái mới, những chân trời khác lạ .

Về nội dung trữ tình, thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng đã mở rộng biên độ phản ánh đến mức tối đa, hòa cùng với quy luật chung của quá trình đổi mới thơ ca trong môi trường, hoàn cảnh khác trước. Các chị đã mở rộng đề tài, đề cập đến nhiều vấn đề phức tạp và mới mẻ của xã hội, nhưng trái tim nhạy cảm của các chị thường tập trung vào những nỗi đau của con người, đặc biệt quan tâm tới số phận của người phụ nữ. Xót xa và đồng cảm cho những bất hạnh mà họ phải gánh chịu. Nói về họ cũng chính là đang nói về chính mình. Đó là những khát vọng yêu đương, làm vợ, làm mẹ với những đòi hỏi chính đáng của

người phụ nữ. Các chị quan tâm tới đề tài tình yêu, thể hiện nó bằng tất cả tư duy và cảm xúc rất thật của chính mình. Tiếng nói của các chị trong thơ tình yêu mang đầy đủ những sắc màu của nó với những biến thái rất tinh vi của trái tim: có ngọt ngào, đớn đau, có hạnh phúc và tan vỡ, có đam mê và thất vọng, có tin yêu và lừa dối, có nồng ấm vui tươi và cũng có cô đơn lạnh lẽo, có nhu cầu về hạnh phúc đời thường và tình yêu trần thế… Các chị đã thể hiện chân thực những nhu cầu, ước muốn của người đàn bà về cuộc sống, về hạnh phúc, về tình yêu – đó là những tiếng nói sòng phẳng, thẳng thắn, dũng cảm phơi bày những bi kịch, nỗi đau và có những quan hệ ứng xử rất rạch ròi, rất văn hóa trong tình yêu và trong cuộc sống.

Sự ràng buộc khắt khe của tư tưởng cổ hủ, lỗi thời trước đây đã được phá bỏ, vì thế tạo điều kiện cho thơ ca hiện nay có cơ hội phát triển. “Cái tôi” trong thơ không còn xem là “ích kỷ cá nhân” mà “cái tôi” đã phát huy tác dụng của nó, gần gũi với đời sống con người hơn. Thơ ca không chấp nhận cái riêng cá nhân chủ nghĩa, cái riêng lạc lõng tăm tối, bí ẩn trong cảm xúc và suy nghĩ. Từ cái riêng của mình phải hướng đến cái chung, cái cộng đồng. Cái tôi trữ tình phong phú làm giàu bản sắc, bộc lộ năng lực cảm thụ, suy nghĩ và cảm xúc dạt dào của từng thi sĩ đã tạo nên những nét cá tính mang đậm dấu ấn cá nhân của họ.

Đối với Dư Thị Hoàn – chị đã đặt vị thế của mình vào người khác để cảm thông, chia sẻ. Chị luôn khát khao được bộc bạch, được giãi bày cái tôi bản thể trong sự đón nhận những tâm hồn đồng điệu. Cái tôi trong thơ chị đa dạng, nhiều màu sắc, có khi là cái tôi trữ tình băn khoăn day dứt trước hiện thực cuộc sống, có lúc lại là cái tôi triết lý, chiêm cảm. Còn với Đoàn Thị Lam Luyến – người đàn bà “dại yêu” cũng bộc lộ hết mình bằng những cái tôi người tình đam mê, mãnh liệt; và cái tôi cô đơn, khắc khoải cùng những cung bậc khó lường trong tình yêu và cuộc sống. Hoàng Việt Hằng – người đàn bà sống và mưu sinh bằng thơ lại thể hiện tâm hồn mình thông qua những cái tôi cô đơn, đau khổ của một kiếp thi nhân đàn bà. Đề rồi từ đó chị tìm đến thiên nhiên – người bạn tâm giao để đồng cảm và chia sẻ những nỗi niềm chất chứa trong lòng.

Mặc dù cái tôi trữ tình trong thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng thể hiện một cách đa dạng, phong phú song cái tôi trong thơ các chị luôn khao khát tìm được sự chia sẻ chân thành, cùng hướng đến tình người, tình

đời tươi đẹp. Sức nặng trong thơ các chị không chỉ được thể hiện trên bề mặt câu chữ mà đó còn là những khoảng lặng để con người suy ngẫm.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

Ở phương thức biểu hiện thơ, Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng đã chủ động đổi mới giọng điệu, thể thơ, ngôn ngữ…đó thực chất là khát vọng đổi mới thi ca, đổi mới chính mình của người cầm bút. Các chị đã sống hết mình cho cuộc đời, dám dũng cảm đi vào mõi ngõ ngách của tâm hồn mình để làm nên sức nặng trong thơ, để thơ không còn là “cái ao đời phẳng lặng” hay ngọn gió đơn điệu chỉ thổi một chiều.

Vẻ đẹp trí tuệ cùng tình cảm trong sáng, giàu tình người, tình đời, giàu chất nhân văn trong thơ của Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng đã ánh lên vẻ đẹp sâu sắc, một vẻ đẹp của những tấm lòng nhân hậu đi từ trái tim đến trái tim. Lấy con người làm trung tâm thông qua những biện pháp nghệ thuật riêng độc đáo của mình, các thi sĩ đã cho ra đời những đứa con tinh thần quý giá, đáng được nâng niu, trân trọng. Một Dư Thị Hoàn không nỡ hưởng hạnh phúc khi biết rằng mình hạnh phúc thì sẽ có một người đau khổ (Chị ấy). Một Đoàn Thị Lam Luyến khát khao yêu đến ngây ngô, khờ dại và cũng đầy chua xót, cay đắng khi trót “làm nhà trên lưng cá voi” (Trên lưng cá voi) nhưng cũng đầy cảm thông với những người trót lầm lỡ (Đứa con mang họ mẹ). Một Hoàng Việt Hằng phải tự khâu những lặng im để khoan dung, độ lượng chấp nhận những “nỗi đau của chồng” (Một mình khâu những lặng im). Những trái tim ấy đã làm nên những giá trị cao đẹp cho thơ, tạo nên những sức hấp dẫn khó cưỡng của những nhà thơ mang thiên tính nữ.

Cái tôi trữ tình trong thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, hoàng Việt Hằng - 17

Mỗi một nhà thơ một sở trường thiên về một miền cảm xúc trữ tình riêng, về cuộc sống, về tình đời, tình người. Đó là những đóng góp quan trọng của các hồn thơ nữ vừa mềm mại, ngọt ngào lại thâm trầm, sâu sắc.

Luận văn nghiên cứu về ba tác giả nữ tiêu biểu trong thời kỳ đổi mới chắc chắn sẽ còn có mặt hạn chế và những vấn đề cần được đi sâu khai thác,khám phá kỹ hơn nữa. Song với tấm lòng yêu mến thơ của Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng và với mong muốn tìm hiểu rõ hơn về cái tôi trữ tình trong thơ của các chị, chúng tôi hi vọng luận văn sẽ góp phần nhỏ trong việc đánh giá, khẳng định, những cá tính thơ vừa trữ tình vừa đằm thắm, có đóng góp trong tiến trình đổi mới thi ca Việt Nam hiện đại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Vũ Tuấn Anh (1997), Nửa thế kỷ thơ Việt Nam 1945 – 1975, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

2. Phạm Quốc Ca (2003), Mấy vấn đề về thơ Việt Nam 1975 – 2000, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

3. Phạm Quốc Ca (1999), “Thơ trữ tình công dân trong nền thơ Việt Nam đổi mới”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (số 03), tr.98 -101.

4. Nguyễn Việt Chiến (2007), Thơ Việt Nam tìm tòi và cách tân 1975 – 2005

(Tuyển chọn và giới thiệu), NXB Hội nhà văn.

5. Nguyễn Văn Dân (2003), Lý luận văn học so sánh, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

6. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.

7. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Văn học, Hà Nội.

8. Nguyễn Đăng Điệp (2003), “Những chuyển động của thơ Việt đương đại”, Tạp chí Văn học (số 05), tr.43 - 48.

9. Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội.

10. Hồ Thế Hà (1997), Thơ và thơ Việt Nam hiện đại (Chuyên đề), Trường đại học Khoa học, Huế.

11. Hồ Thế Hà (1997), Tìm trong trang viết, NXB Thuận Hóa, Huế.

12. Bùi Công Hùng (2000), Sự cách tân thơ Việt Nam hiện đại, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.

13. Trần Thị Thu Hằng (2006), Tình yêu trong thơ nữ Việt Nam 1986 đến nay nhìn từ cá tính sáng taọ mang điểm giới, Luận văn thạc sĩ Văn Học Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm, Đại Học Huế.

14. Hoàng Việt Hằng, Một mình khâu những lặng im, NXB Phụ nữ.

15. Hoàng Việt Hằng (1998), Vệt trăng và cánh cửa, NXB Phụ nữ.

16. Dư Thị Hoàn (1988), Lối nhỏ, Hội Văn học nghệ thuật Hải Phòng xuất bản.

17. Lưu Hiệp (1997) Tinh hoa lý luận cổ điển Trung Hoa, NXB Văn Hóa Thông Tin

18. Yên Khương (2009), “Đoàn Thị Lam Luyến đặt tình yêu trong tương quan đắt”, Báo Tiền Phong.

19. Nguyễn Thụy Kha (1992), “Đôi điều về thơ Dư Thị Hoàn”, Tạp chí Văn Nghệ (số 02), tr. 14.

20. Mã Giang Lân (2002), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.

21. Mã Giang Lân (2007), “Nhịp điệu thơ hôm nay”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 03), tr.21 – 33.

22. Phong Lê, Vũ Văn Sỹ, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ (2002), Thơ Việt Nam hiện đại, NXB Lao Động, Hà Nội.

23. Đoàn Thị Lam Luyến (1989), Lỡ một thì con gái, NXB Hội nhà văn.

24. Đoàn Thị Lam Luyến (1991), Chồng chị chồng em, NXB Hội nhà văn.

25. Đoàn Thị Lam Luyến (2000), Dại yêu, NXB Hội nhà văn.

26. Lê Lưu Oanh (1998), Thơ trữ tình Việt Nam 1975 – 1990, NXB ĐH Sư Phạm.

27. Vũ Nho (2009), 33 gương mặt thơ nữ, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

28. Chu Văn Sơn (2001), “Thơ Dư Thị Hoàn, 15 năm nhìn lại”, Tham luận trong cuốn kỷ yếu Hội thảo Thơ Hải Phòng 15 năm đổi mới và phát triển, Hội Văn học nghệ thuật Hải Phòng.

29. Nguyễn Bá Thành (1996), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.

30. Lưu Khánh Thơ (2005), Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

31. Lưu Khánh Thơ (2003), “Thơ năm 1992”, Tạp chí Văn học (số 2), tr.17 – 20.

32. Văn Thị Kiều Vương (2010), Đặc trưng nghệ thuật thơ tự do của Lê Thị Mây, Dư Thị Hoàn, Phạm Thị Ngọc Liên, Luận văn thạc sĩ Văn Học Việt Nam, Trường Đại Học Sư Phạm, Đại Học Huế.

Tư liệu mạng.

33. Hà Anh (2006), “Dư Thị Hoàn sượng sùng khi phải đi bán thơ”, http://evan.vnexpress.net/news (09/3).

34. Dư Thị Hoàn, Du nữ ngâm, bản thảo, Mạng internet.

35. Ngô Văn Phú (1997), Đoàn Thị Lam Luyến – người đàn bà yêu thơ không chịu bỏ cuộc.

36. Mãng Nguyên (2005), “Dư Thị Hoàn, người khát tìm sự thật và sáng tạo”, http://www.bichkhe.org/home (05/07).

37. Phạm Hồ Thu (2008), Hoàng Việt Hằng với “Vệt trăng và cánh cửa”, Báo Văn nghệ trẻ.

38. Phan Thị Thanh Nhàn (2008), “Lam Luyến càng yêu càng gặp tình hờ”, http://www.vnexpress.net (26/11)

39. Văn Tâm (1990), “Bạn đã đọc chưa, thơ Dư Thị Hoàn?”, http://www.Bichkhe.Org/home (05/07).

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/02/2023