Không chỉ có các tổ chức, doanh nghiệp tham gia vào việc dạy nghề mà các cá nhân cũng có đóng góp không nhỏ trong hoạt động này. Điều đó đã làm tăng cơ hội học nghề của NKT, thể hiện tính xã hội hóa trong công tác đào tạo nghề cho NKT. Các cá nhân thường dạy nghề cho NKT tại các cơ sở “gia đình”. Gọi là cơ sở dạy nghề gia đình bởi lẽ các cơ sở dạy nghề này đều có xuất phát điểm là do các cá nhân tự thành lập và điều hành. Họ thường dạy nghề miễn phí cho NKT đồng thời còn tạo việc làm cho NKT giúp họ có thu nhập ngay sau khi học nghề.
Bên cạnh đó, không ít NKT sau khi học nghề đã đạt được trình độ tay nghề nhất định, không chỉ tham gia lao động ổn định cuộc sống mà còn có thể dạy nghề cho những NKT khác, trở thành tấm gương tốt cho những NKT khác noi theo.
2.2.2.2. Một số hạn chế
Theo báo cáo của các địa phương cả nước trong giai đoạn 2006 - 2010 tổng số người khuyết tật được dạy nghề gần 30.000 người, chỉ đạt 37,5% mục tiêu đề ra theo Quyết định số 239/2006/QĐ-TTg ngày 24/10/2006 của Chính phủ, trong đó chỉ có gần 16.000 người được tạo việc làm, số còn lại được cải thiện việc làm. Hàng năm có khoảng 5.000 - 6.000 NKT được dạy nghề, chiếm 0.4% tổng số người được dạy nghề nói chung, trong khi đó tỷ lệ người khuyết tật chiếm tới 8% tổng dân số. Thực tế kết quả thực hiện tổ chức dạy nghề cho NKT những năm gần đây có sự chuyển biến, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi thực tế và mục tiêu Chính phủ đề ra.
* Về dạy và học nghề:
Kết quả khảo sát tình hình người khuyết tật năm 2008 cho thấy tỉ lệ NKT học nghề còn thấp chiếm 12,1% và số NKT được học nghề chủ yếu là ở thành phố 14,0% so với 10,4% NKT ở nông thôn. Đề án của Chính phủ về việc đào tạo nghề cho NKT với mục tiêu trong giai đoạn 2006 - 2010 có khoảng 80 nghìn NKT được đào tạo nghề. Tuy nhiên, kết quả thu được từ
khảo sát này cho thấy Chính phủ và các ban ngành liên quan cần phải nỗ lực hơn nữa mới có thể tăng tỉ lệ NKT được đào tạo nghề theo đúng đề án đưa ra.
Bảng 2.1. Tỉ lệ người khuyết tật được học nghề
Thành phố | Nông thôn | Tổng | ||||
N | % | N | % | N | % | |
Được học nghề | 33 | 14,0 | 26 | 10,4 | 59 | 12,1 |
Không được học nghề | 203 | 86,0 | 224 | 89,6 | 427 | 87,9 |
Tổng số | 236 | 100 | 250 | 100 | 486 | 100 |
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh Giá Chung Về Thực Trạng Các Quy Định Của Pháp Luật Về Dạy Nghề Đối Với Người Khuyết Tật Ở Việt Nam Hiện Nay
- Thực Trạng Áp Dụng Pháp Luật Về Dạy Nghề Đối Với Người Khuyết Tật Ở Việt Nam Hiện Nay
- Những Thành Tựu Và Hạn Chế Trong Áp Dụng Pháp Luật Về Dạy Nghề Đối Với Người Khuyết Tật Ở Việt Nam Hiện Nay
- Những Giải Pháp, Kiến Nghị Hoàn Thiện Pháp Luật Về Dạy Nghề Đối Với Người Khuyết Tật
- Kiến Nghị Hoàn Thiện Quá Trình Thực Hiện Pháp Luật Về Dạy Nghề Đối Với Người Khuyết Tật
- Pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật ở Việt Nam - 14
Xem toàn bộ 122 trang tài liệu này.
(Nguồn: Theo Báo cáo kết quả khảo sát Lấy ý kiến nhân dân về tình hình thực hiện Pháp lệnh người tàn tật, Hà Nội, tháng 10, 2008 của Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội (Dự án 00049114), Viện xã hội học)
Về trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật của NKT: Theo thống kê năm 2008, tỉ lệ NKT chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ rất cao (88,9%). Trong khi đó tỉ lệ NKT được đào tạo ở bậc cao đẳng, đại học rất thấp (chỉ chiếm 1,7%). Sự chênh lệch lớn này một phần là nguyên nhân của tình trạng NKT không có việc làm, bên cạnh đó cũng thể hiện sự yếu kém trong công tác đào tạo đối với NKT.
Trình độ CMKT của NKTVN
1,7%
2.7%
6.7%
Chưa qua đào tạo
Truyền nghề sơ cấp nghề
Trung học chuyên nghiệp
Cao đẳng, Đại học
Trình độ học vấn của NKTVN
Không biết chữ
Chưa tốt nghiệp tiểu học
Tốt nghiệp tiểu học Chưa tốt nghiệp PTCS
Tốt nghiệp PTCS
Chưa tốt nghiệp PTTH
Tốt nghiệp PTTH
2,1%
Biểu đồ 2.2: Về trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật của người khuyết tật Việt Nam năm 2008
(Nguồn: Điều tra tình hình thực hiện pháp luật người khuyết tật, Bộ LĐTB&XH, 2008)
Hiện nay, có ba hình thức dạy nghề phổ biến dành cho NKT gồm cơ sở sản xuất kinh doanh, gia đình và trung tâm dạy nghề. Số liệu điều tra cho thấy, có rất ít NKT tham gia nghiên cứu được học nghề tại 3 tổ chức nêu trên. Cụ thể:Việc học nghề tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh chỉ có 4,4% NKT tham gia. Đối trọng với 88,8% những người không tham gia. Trong số 18 người đã từng tham gia học nghề tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh thì có tới một nửa đang sống tại Hà Nội, nửa còn lại chia đều cho 3 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ninh và Cần Thơ. Tỉ lệ NKT chưa được học nghề tại các cơ sở sản xuất ở tỉnh Cần Thơ cao hơn so với các tỉnh còn lại. Kết quả khảo sát cũng chỉ ra sự chênh lệch giữa NKT ở nông thôn chưa từng học nghề tại các cơ sở này cao hơn so với NKT ở thành thị (91,3% so với 76,6%)
88.8
87.5
88.1
4.4
7.9
4.4
100
80
60
40
20
0
Cơ sở SX Gia đình TT dạy nghề
Có tham gia Không tham gia
Biểu đồ 2.3: Tình hình học nghề của người khuyết tật tại các cơ sở
(Nguồn: Báo cáo kết quả khảo sát Lấy ý kiến nhân dân về tình hình thực hiện Pháp lệnh người tàn tật, Hà Nội, tháng 10, 2008 của Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội (Dự án 00049114), Viện xã hội học)
* Tại một số địa phương điển hình:
- Nghệ An là một trong những tỉnh có số lượng người khuyết tật nhiều nhất cả nước. Theo số liệu thống kê năm 2010, tỉnh có 203.000 người khuyết
tật các loại, trong đó có 30 - 40% số người khuyết tật có nhu cầu học nghề và mong muốn tìm được việc làm phù hợp với sức khoẻ và năng lực bản thân. Thế nhưng, trên thực tế, các cơ sở đào tạo nghề cho người khuyết tật trên địa bàn tỉnh còn rất thiếu và chưa đáp ứng được nhu cầu học nghề của chính những người khuyết tật. Anh Lê Văn Nhã - xã Nam Anh, huyện Nam Đàn bị khuyết tật đôi chân từ khi lên 10 tuổi. Không cam chịu là gánh nặng của gia đình, anh quyết tâm đi học nghề sửa chữa điện tử tại một cơ sở dạy nghề ở thành phố Vinh. Nhờ nhạy bén và chịu khó, anh đã trở thành một thợ sửa chữa điện tử giỏi và về hành nghề ngay tại địa phương. Thông qua công việc, anh đã tìm thấy niềm vui vì trở thành một người có ích cho xã hội. Tuy nhiên, Anh Nhã là một trong 2 trường hợp duy nhất ở xã Nam Anh được đào tạo nghề qua trường lớp chính thức cho đến thời điểm hiện nay. Trong tổng số 53 người khuyết tật của xã Nam Anh, chỉ có khoảng 50% trong số đó có khả năng có thể làm việc, nhưng số đối tượng này lại không tìm được công việc phù hợp đối với mình. Nguyên nhân chính là do đa số người khuyết tật không được tư vấn hướng nghiệp và chưa được đào tạo nghề chính quy. Vì vậy họ không biết mình có thể làm tốt việc gì và không có tay nghề vững vàng ở một lĩnh vực nào cả. Điều này cũng đồng nghĩa rằng cơ hội tìm việc làm phù hợp của người khuyết tật càng bị hạn chế. Trong khi đó, qua khảo sát thực tế, nhu cầu được học nghề của những người khuyết tật là rất lớn. Năm 2004, toàn tỉnh Nghệ An có 203.000 người khuyết tật, trong đó chỉ có khoảng 70.000 người khuyết tật có thể làm việc mong muốn được học nghề và có nghề để tự lập. Song,trên thực tế toàn tỉnh lại chỉ có duy nhất một cơ sở chuyên đào tạo nghề cho người khuyết tật đó là Trung tâm dạy nghề người tàn tật Nghệ An. Bình quân mỗi năm, Trung tâm chỉ dạy nghề cho khoảng 200 - 250 người. Con số này là quá thấp so nhu cầu thực tế toàn tỉnh hiện nay. Trước thực trạng này, hội bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi Nghệ An đang tiến hành khảo sát và xây dựng các giải pháp thực hiện
Nhận xét một cách khách quan, đây được đánh giá là những con số đáng buồn. Mục tiêu lớn nhất mà Nhà nước khuyến khích việc học nghề tại các cơ sở kinh doanh, sản xuất bởi những ưu đãi về thuế, về vốn chính là hướng tới tạo điều kiện thuận lợi cho NKT vừa có nghề và vừa có thể kiếm được việc làm ngay tại nơi học. Nhưng con số tham gia quá ít như vậy là vì lý do gì? Nguyên nhân xuất phát từ bản thân NKT hay từ các cơ sở sản xuất, kinh doanh? Hiện nay số lượng NKT được học nghề còn quá ít và chiều hướng tăng không đáng kể. Theo kết quả thu được từ chương trình “Đánh giá của NKT và người chăm sóc NKT về tình hình đào tạo, dạy nghề và giải quyết việc làm cho NKT” thì trong các lý do khiến NKT tham gia quá ít vào các lớp học nghề lý do “không có khả năng tiếp thu” chiếm tỷ lệ nhiều nhất 32,5%. Đó là do ảnh hưởng của mức độ thương tật. Đây là lý do chúng ta không thể thay đổi. Nhưng các lý do tiếp theo được lựa chọn đều là những lý do khách quan mà chúng ta có thể cải thiện được trong thời gian tới: “không có lớp học” (29,4%), “không được thông báo” (13,3%), “không phải là đối tượng” (11,6%) [Xem bảng 2.2]. Rõ ràng là không có nhiều các cơ sở sản xuất kinh doanh mở các lớp dạy nghề dành cho NKT.
Bảng 2.2. Lý do không tham gia các lớp học nghề
Cơ sở SX, KD | TT đào tạo nghề | Tại gia đình | |
Không được thông báo | 13,3 | 15,5 | 1,3 |
Không phải là đối tượng | 11,6 | 12,9 | 4,8 |
Học cũng không làm gì | 6,7 | 6,7 | 7,7 |
Không thích tham gia | 4,9 | 4,4 | 2,9 |
Không có khả năng tiếp thu | 32,5 | 34,2 | 32,2 |
Phải đóng tiền | 1,4 | 1,8 | |
Không có lớp học | 29,4 | 24,6 | 51,1 |
(Nguồn: Theo Báo cáo kết quả khảo sát Lấy ý kiến nhân dân về tình hình thực hiện Pháp lệnh người tàn tật, Hà Nội, tháng 10, 2008 của Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội (Dự án 00049114), Viện xã hội học)
Hoạt động học nghề tại gia đình cũng gặp phải tình hình tương tự như học nghề tại cơ sở sản xuất kinh doanh và học nghề tại các trung tâm đào tạo nghề. 7,9% đã từng học và 87,5% chưa từng học. Nhưng các lý do thì đã có sự thay đổi lớn về vị trí. Lý do xếp ở vị trí đầu là “không có lớp học” 51,1%. Điều này có thể hiểu là, gia đình của NKT không có nghề hoặc không có khả năng dạy nghề cho họ; có các lớp dạy nghề tại các gia đình có nghề nhưng NKT không thể tiếp cận được. Lý do “không có khả năng tiếp thu” vẫn tiếp tục được hơn 1/3 số người lựa chọn. Lớp dạy nghề dành riêng cho đối tượng là NKT không nhiều vì kinh phí, điều kiện đi lại, phân bố dân cư và khả năng tập hợp phục vụ mở lớp. Thêm vào đó, vì chính sách “Một số quy địnhvề việc sử dụng các nguồn lực hỗ trợ cho việc dậy nghề tạo việc làm đối với NKT chưa hợp lý, gây khó khăn cho việc giải ngân các nguồn vốn huy động được.
2.3. Nguyên nhân cơ bản
2.3.1. Nguyên nhân khách quan
Người khuyết tật là đối tượng đặc thù, tuy số lượng lớn nhưng có nhiều dạng khuyết tật và cư trú rải rác rộng khắp trên cả nước; mỗi dạng tật chỉ phù hợp với một số nghề nhất định nên dạy nghề cho họ có nhiều khó khăn và chi phí cao hơn so với dạy nghề thông thường. Khó khăn mà người khuyết tật gặp phải là sự thiếu cảm thông của xã hội về tình trạng khuyết tật. Nhiều trẻ em khuyết tật không thể đi học cũng do gia đình, cha mẹ các em và chính bản thân các em sợ sẽ bị bạn bè trêu chọc. Nhiều NKT không dám đến các nơi công cộng vì sợ bị nhiều ánh mắt để ý khiến họ cảm thấy tự ti. Ngay tại các doanh nghiệp, người khuyết tật tưởng như được nhiều ưu đãi nhưng thực chất họ lại gặp nhiều khó khăn không mong đợi như cơ sở vật chất, thời gian làm, công việc làm... Nhiều NKT sau khi ra trường không thể tìm cho mình một công việc phù hợp do nhiều nhà tuyển dụng ái ngại về khả năng lao động của người khuyết tật. Đại bộ phận người khuyết tật có hoàn
cảnh kinh tế khó khăn, trình độ văn hoá thấp nên dù có chính sách hỗ trợ nhưng nhiều người khuyết tật vẫn không tự đảm bảo các chi phí cần thiết cho việc học nghề, tạo việc làm.
Những năm gần đây, thực hiện Đề án hỗ trợ dạy nghề cho lao động nông thôn theo QĐ 1956/ QĐ - TTg với mục tiêu hàng năm phải dạy nghề và tạo việc làm cho 01 triệu lao động nông thôn nên các địa phương phải tập trung chỉ đạo để đảm bảo thực hiện, dạy nghề cho người khuyết tật phần nào bị sao nhãng. Mặt khác mức chi theo quy định của đề án thấp so với dạy nghề cho người khuyết tật.
Các bộ, ngành liên quan và các địa phương còn chưa thực sự quan tâm đầu tư đúng mức; chưa có sự chỉ đạo, kiểm tra giám sát, đánh giá kết quả thực hiện thường xuyên các chính sách đã được ban hành để có biện pháp tổ chức thực hiện và kịp thời bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với thực tế. Từ năm 2010 Chương trình mục tiêu quốc gia không còn hỗ trợ dạy nghề cho người khuyết tật nữa, do đó việc dạy nghề cho người khuyết tật nhất là đối với các Hội, tổ chức đoàn thể của người khuyết tật càng khó khăn.
Trên thực tế, mặc dù pháp luật quy định các đãi ngộ cho các cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng lao động là NKT, có những chính sách khuyến khích cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nhận NKT vào làm việc tuy nhiên vấn đề lớn nhất hiện nay là triển khai sao cho hiệu quả, chúng ta chưa có cơ chế hữu hiệu để áp dụng pháp luật một cách hiệu quả, đồng bộ.
2.3.2. Nguyên nhân chủ quan
- Thái độ tiêu cực và định kiến trong xã hội chính là rào cản khó khăn nhất mà người tìm việc khuyết tật phải vượt qua để tự tìm cho mình cơ hội tạo thu nhập. Bên cạnh đó, nhận thức của bản thân NKT và gia đình về đào tạo nghề cho NKT còn chưa đầy đủ; nhu cầu học nghề của NKT rất thấp. Kết quả điều tra năm 2008 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho thấy chỉ có 13,7% NKT có nhu cầu học nghề.
- Nhận thức của chính quyền các cấp về dạy nghề cho NKT còn chưa đầy đủ, còn chưa thấy hết được tầm quan trọng và tiềm năng của việc dạy nghề đối với NKT.
- Hỗ trợ kinh phí cho dạy nghề đối với NKT còn thấp, nhiều trung tâm phải lo gần như hoàn toàn kinh phí hoạt động. Việc dạy nghề đối với NKT đã khó lại cộng với việc thiếu kinh phí nên lại càng khó thêm.
- Hệ thống dạy nghề hiện nay vừa yếu, vừa thiếu, chưa đủ khả năng đáp ứng công tác dạy nghề cho NKT. Các trường dạy nghề trên cả nước không phải là ít song lại không có nhiều cơ hội cho họ, đặc biệt là những NKT vận động và khiếm thính, khiếm thị có cơ hội theo học.
- Nội dung chương trình, ngành nghề đào tạo, hình thức đào tạo chưa hợp lý về kết cấu, quá nặng về lý thuyết, thiếu thực hành; chưa có những giáo trình dành riêng cho NKT; thiếu các thiết bị dạy nghề đối với NKT. Việc học nghề hòa nhập không thực sự là một giải pháp hiệu quả. Bên cạnh đó thời gian để NKT học một chương trình thường ngắn dẫn đến hiệu quả dạy nghề chưa cao.
- Đội ngũ giáo viên dạy nghề cho NKT còn yếu cả về kiến thức, kỹ năng và nhận thức về các lĩnh vực kỹ thuật, sư phạm và quản lý đối với NKT.
- Năng lực giới thiệu việc làm sau đào tạo nghề cho NKT của hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm còn hạn chế. Phần lớn các cơ sở dạy nghề còn thiếu thông tin về NKT sau đào tạo, không nắm được số liệu về NKT có việc làm sau việc làm (chi tiết tại phụ lục về tình hình dạy nghề đối cho NKt tại các cơ sở dạy nghề và các địa phương).
- Chưa có số liệu thống kê, đánh giá, phân loại số NKT theo mức độ khuyết tật, dạng tật, theo khả năng lao động để giúp cho công tác dạy nghề phù hợp với khả năng học nghề, khả năng lao động, yêu cầu của nghề nghiệp trong tương lai.
- Các ngành nghề trong chương trình dạy chưa phù hợp với thị trường