Các Quyền Cơ Bản Của Người Khuyết Tật Trong Pháp Luật Quốc Tế

Năm 1944, với bản khuyến nghị đầu liên quan đến các dịch vụ việc làm, bao gồm cả đào tạo nghề và định hướng việc làm (Khuyến nghị Số 71, 1944 về Việc làm), ILO đã dành một phần đáng kể (phần X, từ đoạn 39 đến đoạn 44) để trình bày về vấn đề việc làm của người khuyết tật. ILO có đề xuất rằng, bất kỳ khi nào có thể, người khuyết tật cần được đào tạo cùng với những người khác, được làm việc trong cùng điều kiện và được trả cùng mức lương; đồng thời cần tiếp tục việc đào tạo cho đến khi người khuyết tật có đủ khả năng kiếm được việc làm trong lĩnh vực hoặc các ngành nghề mà họ đã được đào tạo. ILO kêu gọi sự bình đẳng về cơ hội nghề nghiệp cho người lao động khuyết tật và khuyến khích áp dụng các chính sách việc làm ưu tiên nhằm tăng cường việc làm cho người khuyết tật nặng [91].

Năm 1983, một năm sau khi thực thi Chương trình hành động toàn cầu liên quan đến người khuyết tật và hai năm sau Năm quốc tế về Người khuyết tật, ILO đã thông qua Công ước số 159 và Khuyến nghị số 168 về Tái thích ứng nghề nghiệp và việc làm của người khuyết tật. Công ước số 159 yêu cầu các nước đã phê chuẩn công ước này phải xây dựng các chính sách quốc gia dựa trên nguyên tắc cơ hội bình đẳng giữa người lao động khuyết tật và người lao động nói chung, tôn trọng sự bình đẳng về cơ hội và đối xử bình đẳng giữa người khuyết tật nam và nữ, đồng thời thực thi các biện pháp tích cực nhằm thực hiện hiệu quả các nguyên tắc này. Việc đề cao sự tham gia toàn diện của người khuyết tật được thể hiện thông qua khái niệm về phục hồi chức năng gắn với việc làm: “Giúp người khuyết tật tìm được việc phù hợp, được duy trì và thăng tiến trong công việc đó và qua đó được hòa nhập hoặc tái hòa nhập xã hội tốt hơn” [80, Điều 1-2].

Như vậy có thể thấy quan niệm về quyền của người khuyết tật trong pháp luật quốc tế có sự thay đổi qua các thời kì khác nhau nhưng xu hướng chung là dịch chuyển hướng tiếp cận quyền của người khuyết tật từ nhân đạo chuyển sang nhân quyền. Theo đó, người khuyết tật cũng có cơ hội bình đẳng và được hưởng các quyền cơ bản của con người với tư cách là thành viên của cộng đồng xã hội, ngoài ra họ còn có các quyền được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt với tư cách là nhóm người đặc biệt dễ bị tổn thương, được thừa nhận và bảo hộ bằng pháp luật quốc tế cũng như pháp luật quốc gia.

1.1.2. Vị trí, vai trò quyền của người khuyết tật

Vấn đề người khuyết tật đã đang trở thành chủ đề được đặc biệt quan tâm bởi cả cộng đồng quốc tế. Sau một thời gian dài, thế giới mới bắt thừa nhận người khuyết tật như một chủ thể của các quyền như mọi thành viên khác trong xã hội và đã được thể chế hóa trong pháp luật quốc tế và quốc gia. Quyền của người khuyết tật đã trở thành một chế định quan trọng trong luật quốc tế hiện đại. Liên hợp quốc đang nỗ lực kêu gọi các quốc gia phải hoàn thiện hệ thống pháp luật để tạo cơ sở pháp lý tôn trọng, quan tâm thúc đẩy việc thực hiện các quyền cơ bản của người khuyết tật. Vậy vị trí và vai trò quyền của người khuyết tật là gì?

Thứ nhất, việc công nhận quyền của người khuyết tật thể hiện một quan điểm nhân văn và tiến bộ của nhân loại, khẳng định rằng với tư cách là một con người, người khuyết tật có các quyền cơ bản như mọi thành viên khác trong xã hội. Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền của Liên hợp quốc năm 1948 đã khẳng định mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, đều có quyền sống, quyền hưởng phúc lợi, quyền được giáo dục và có việc làm, quyền sống một cách độc lập và được tham gia tích cực vào mọi mặt của đời sống xã hội. Bất kỳ một sự phân biệt trực tiếp hoặc phân biệt đối xử tiêu cực khác đối với người khuyết tật đều vi phạm các quyền của người đó. Do đó, quyền của người khuyết tật bao hàm tất cả nội hàm cũng như đặc điểm của quyền con người. Ngoài ra, do đặc thù là nhóm người chịu nhiều thiệt thòi, dễ bị tổn thương và gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện các quyền cơ bản của con người cho nên quyền của người khuyết tật có các đặc điểm riêng nhất định.

Việc công nhận quyền của người khuyết tật cũng là điều kiện để đảm bảo sự hòa bình, ổn định và phát triển của nhân loại. Trong lời nói đầu của Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền của Liên hợp quốc có khẳng định:

Việc thừa nhận nhân phẩm vốn có, các quyền bình đẳng và không thể tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự do, công bằng và hòa bình trên thế giới và Nhân quyền phải được pháp luật bảo vệ để mỗi người không buộc phải nổi loạn như là biện pháp cuối cùng để chống lại chế độ cường quyền và áp bức [34].

Việc thừa nhận người khuyết tật như là một chủ thể của các quyền, có khả năng tự nuôi sống bản thân và làm chủ cuộc sống của mình giúp cho mỗi quốc gia giảm bớt được gánh nặng về phúc lợi xã hội cho người khuyết tật vì lý do phụ thuộc và không sinh lợi. Từ đó, thúc đẩy sự phát triển của bản thân người khuyết tật nói riêng cũng như xã hội nói chung.

Thứ hai, quyền của người khuyết tật là cơ sở và nền tảng cho việc thể chế hóa thành các chính sách và quy định của pháp luật để bảo vệ và phát huy tối đa mọi nguồn lực xã hội. Luật pháp quốc tế và quốc gia đã và đang thông qua hoặc điều chỉnh để đảm bảo các quyền của người khuyết tật. Người khuyết tật do đó được đảm bảo có cơ hội đồng đều thông qua việc xóa bỏ tất cả các trở ngại, định kiến của xã hội về mặt thể chất, tài chính, xã hội hoặc tâm lý mà đã loại trừ hoặc hạn chế sự tham gia hoàn toàn của họ vào đời sống xã hội, đồng thời có cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng khi chúng bị xâm phạm trên phạm vi toàn cầu. Nhiệm vụ nội luật hóa các quy định của pháp luật quốc tế trong pháp luật quốc gia được quy định trong Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật năm 2006: “Nghĩa vụ chung: Các quốc gia thành viên cam kết đảm bảo và thúc đẩy sự hiện thực hóa đầy đủ tất cả các quyền và tự do cơ bản của toàn bộ những người khuyết tật mà không có bất cứ sự phân biệt đối xử nào dựa trên cơ sở khuyết tật…” [96, Điều 4].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.

Thứ ba, việc thừa nhận quyền của người khuyết tật là phù hợp với xu thế chung của quốc tế. Trong xu thế hội nhập, vấn đề quyền của người khuyết tật không còn là vấn đề của một người, một cộng đồng, một quốc gia mà trở thành mối quan tâm chung của nhân loại. Do đó, thừa nhận người khuyết tật là chủ thể của các quyền giúp cho mỗi quốc gia theo kịp với thế giới. Cộng đồng quốc tế nói chung luôn yêu chuộng hòa bình và nhân đạo. Việc thể chế hóa quyền của người khuyết tật trong hệ thống pháp luật giúp cải thiện cái nhìn và tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với vấn đề nhân quyền của mỗi quốc gia, giúp tiếng nói của mỗi quốc gia trên trường quốc tế trở lên có uy tín và sức mạnh.

Ngày nay loài người đang phải đương đầu với những thách thức to lớn là đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia, vấn đề ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, xung đột sắc tộc, tôn giáo, đói nghèo… là những nguyên nhân làm gia tăng số lượng người khuyết tật. Do đó đòi hỏi phải có sự nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế vì mục tiêu tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho con người phát triển toàn diện. Cũng vì lẽ đó, Liên hợp quốc đã thông qua hơn 50 văn kiện quốc tế bảo vệ quyền tự do của con người trong đó có người khuyết tật. Liên hợp quốc cũng khuyến nghị và yêu cầu các quốc gia phải có nghĩa vụ hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia phù hợp với pháp luật quốc tế; nghiêm chỉnh thực hiện các cam kết quốc tế đã nêu trong các Công ước quốc tế mà quốc gia đã phê chuẩn hoặc tham gia. Và một khi pháp luật quốc gia đã phù hợp với pháp luật quốc tế, sẽ trở thành phương tiện quan trọng trong việc bảo đảm quyền của người khuyết tật trong phạm vi quốc gia và tranh thủ sự trợ giúp của các nguồn lực quốc tế để đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền của người khuyết tật.

Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 3

1.1.3. Các quyền cơ bản của người khuyết tật trong pháp luật quốc tế

Người khuyết tật có đầy đủ các quyền cơ bản của con người, trong đó có các quyền về dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật năm 2006 từ Điều 5 đến Điều 30 đã ghi nhận các quyền cơ bản của người khuyết tật như quyền được sống; quyền được thừa nhận bình đẳng; quyền tự do và an toàn cá nhân; quyền sống độc lập và hòa nhập cộng đồng; quyền được tôn trọng gia đình và tổ ấm; quyền tự do đi lại, tự do cư trú và tự do quốc tịch; quyền tự do biểu đạt chính kiến và tiếp cận thông tin; quyền được bảo vệ không bị tra tấn, bị đối xử, áp dụng các hình phạt tàn nhẫn; quyền không bị bóc lột, bạo hành và lạm dụng; quyền được tham gia đời sống chính trị và cộng đồng; quyền tham gia các hoạt động văn hóa, nghỉ ngơi, giải trí và thể thao; quyền hưởng các dịch vụ y tế, quyền được hỗ trợ chức năng và phục hồi chức năng; quyền có mức sống thích đáng và bảo trợ xã hội đầy đủ; quyền được tiếp cận giáo dục; quyền có cơ hội công việc và việc làm. Theo đó, Công ước quy định:

Quốc gia thành viên công nhận rằng mọi người đều bình đẳng

trước pháp luật và có quyền được pháp luật bảo vệ, quyền được hưởng lợi ích của pháp luật một cách bình đẳng, không có sự phân biệt nào; Quốc gia thành viên cấm phân biệt đối xử trên cơ sở sự khuyết tật và bảo đảm cho người khuyết tật sự bảo vệ pháp lý hữu hiệu và bình đẳng chống lại sự phân biệt đối xử trên bất kỳ cơ sở nào [38, Điều 5-1, 5-2].

Do vậy, người khuyết tật được hưởng đầy đủ các quyền lợi như mọi thành viên khác trong xã hội và ngay cả những người khuyết tật cũng được hưởng các quyền lợi bình đẳng như nhau mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào vì lý do khuyết tật của họ. Trách nhiệm của các quốc gia thành viên Công ước là phải thể chế hóa, nội luật hóa các quy định của Công ước vào pháp luật quốc gia và thực thi nghiêm chỉnh các quy định đó.

Bên cạnh các quyền lợi cơ bản nêu trên, do đặc thù là nhóm người chịu nhiều thiệt thòi, dễ bị tổn thương và gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện các quyền cơ bản của con người, cho nên quyền của người khuyết tật có những đặc điểm riêng bao gồm:

Trong lĩnh vực dân sự, chính trị, người khuyết tật có các quyền dân sự, chính trị với tư cách là một con người. Tuy nhiên đối với những người khuyết tật tâm thần nặng, là những người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, mất năng lực hành vi dân sự; những người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có năng lực hành vi dân sự một phần (người mắc bệnh tâm thần, thiểu năng trí tuệ) phải thực hiện các quyền dân sự (ví dụ tham gia các giao dịch dân sự) thông qua người giám hộ hoặc được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Những người bị khuyết tật tâm thần nặng không có quyền tham gia bầu cử, ứng cử do không có năng lực hành vi dân sự [36, Điều 5]. Một số quyền của người khuyết tật về tâm thần cần được ưu tiên theo luật định, chẳng hạn quyền không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với những người tâm thần nặng phạm tội hình sự bởi vì họ không có năng lực trách nhiệm hình sự. Điều này đòi hỏi phải có các quy định chặt chẽ của pháp luật về những điều kiện, cách thức để xác định những trường hợp người khuyết tật không phải chịu trách nhiệm pháp lý nhằm tránh oan sai hoặc bỏ sót tội phạm. Như vậy,

người khuyết tật tâm thần, người thiểu năng trí tuệ có các quyền dân sự, chính trị không đầy đủ, họ không thể tự thực hiện một số quyền và không có khả năng bảo vệ quyền của mình mà phải thông qua người giám hộ hoặc người đại diện. Đặc điểm này cho thấy trách nhiệm của nhà nước là phải có các quy định cụ thể bằng pháp luật để tạo ra cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ quyền của người khuyết tật tâm thần nặng và những người thiểu năng trí tuệ, tránh lạm dụng và vi phạm quyền của người khuyết tật trong thực tế.

Trong lĩnh vực quyền kinh tế, văn hóa và xã hội, người khuyết tật có những đặc quyền đó là quyền được chăm sóc, chỉnh hình và phục hồi chức năng. “Người khuyết tật về tâm thần có quyền được chăm sóc sức khỏe và vật lý trị liệu phù hợp, đồng thời có các quyền về giáo dục, đào tạo, phục hồi chức năng và hướng dẫn để họ có thể phát triển khả năng và tiềm năng của mình tới mức tối đa” [36, Điều 2]. Những người khuyết tật vận động bị hạn chế khả năng thực hiện đầy đủ quyền được tiếp cận các công trình công cộng, hòa nhập cộng đồng; người khuyết tật nghe, nhìn bị hạn chế khả năng tiếp cận các phương tiện thông tin, truyền thông… Đây là những đặc điểm riêng biệt cần phải quan tâm trong khi thực hiện quyền con người của người khuyết tật, cần phải có chính sách hỗ trợ đặc biệt tạo điều kiện cho họ thực hiện đầy đủ các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa.

Trong lĩnh vực lao động, người khuyết tật cũng có các quyền cơ bản như những lao động bình thường khác chẳng hạn như: quyền được đào tạo dạy nghề và việc làm, quyền về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, an toàn lao động, vệ sinh lao động, quyền được hưởng trợ cấp xã hội và khiếu nại khi quyền lợi của mình bị xâm phạm… Công ước Quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966 quy định về việc thừa nhận quyền mà mọi người được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi như sau:

Các quốc gia thành viên Công ước thừa nhận quyền của mọi người được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi, đặc biệt đảm bảo:

a. Thù lao cho tất cả mọi người làm công tối thiểu phải đảm bảo:

(i) Tiền lương thoả đáng và tiền công bằng nhau cho những công việc có giá trị như nhau, không có sự phân biệt đối xử nào; đặc biệt, phụ nữ phải được đảm bảo những điều kiện làm việc không kém hơn đàn ông, được trả công ngang nhau đối với những công việc giống nhau;

(ii) Một cuộc sống tương đối đầy đủ cho họ và gia đình họ phù hợp với các quy định của Công ước này.

b) Những điều kiện làm việc an toàn và lành mạnh;

c) Cơ hội ngang nhau cho mọi người trong việc được đề bạt lên chức vụ thích hợp cao hơn, chỉ cần xét tới thâm niên và năng lực làm việc;

d) Sự nghỉ ngơi, thời gian rảnh rỗi, giới hạn hợp lý số giờ làm việc, những ngày nghỉ thường kỳ được hưởng lương cũng như thù lao cho những ngày nghỉ lễ [35, Điều 7].

Tuy nhiên, cũng do đặc điểm tâm sinh lý khác biệt, người khuyết tật được pháp luật quy định được hưởng các quyền bình đẳng với những người khác về điều kiện tuyển dụng, sự thuê mướn và tuyển dụng, tiếp tục được tuyển dụng kể cả trong lĩnh vực công, thăng tiến nghề nghiệp, được trả lương ngang nhau cho công việc có giá trị ngang nhau và điều kiện làm việc an toàn và bảo đảm sức khỏe…, nghiêm cấm mọi sự phân biệt đối xử để đảm bảo cho họ bình đẳng với những lao động bình thường khác, tạo động lực thúc đẩy họ phấn đấu, làm tốt công việc của mình. Điều này được thể hiện trong Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật:

Quốc gia thành viên công nhận quyền lao động của người khuyết tật trên cơ sở bình đẳng với những người khác; quyền này bao gồm cả quyền có cơ hội tự kiếm sống bằng hình thức lao động do người lao động chọn hoặc chấp nhận trên thị trường lao động và trong môi trường lao động mở, dễ tiếp cận đối với người khuyết tật… [38, Điều 27].

Công ước số 159 (1983) về Tái thích ứng nghề nghiệp và việc làm của người khuyết tật ILO cũng quy định: “Mọi nước thành viên phải coi mục đích tái thích ứng nghề nghiệp và làm cho mọi người khuyết tật có thể tìm được và duy trì được một việc làm thích hợp, có thể thăng tiến về nghề nghiệp, và do đó dễ dàng trong việc hòa nhập hoặc tái hòa nhập vào xã hội” [80, Điều 1-2].

Trên cơ sở giới tính, tuổi tác, nguyên nhân gây ra khuyết tật, người khuyết tật được phân loại thành nhiều nhóm khác nhau, do đó cần phải có các biện pháp bảo vệ quyền phù hợp với từng đối tượng. Xét dưới góc độ giới tính, phụ nữ khuyết tật là những người bị tổn thương kép, vì vậy, cần phải lồng ghép vấn đề bình đẳng giới, có chính sách ưu tiên đặc biệt trong việc bảo vệ quyền của người khuyết tật là phụ nữ. Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật 2006 quy định: “Quốc gia thành viên thừa nhận rằng phụ nữ và các bé gái khuyết tật dễ bị phân biệt đối xử, do vậy quốc gia thành viên phải tiến hành các biện pháp bảo đảm cho họ được hưởng trọn vẹn và bình đẳng các quyền và tự do cơ bản của con người” [38, Điều 6]. Dưới góc độ tuổi tác, trẻ em khuyết tật là những công dân đặc biệt, bởi các em còn non nớt cả về thể chất và trí tuệ, lại thêm bất hạnh bởi khuyết tật nên các em không thể thực hiện các quyền của mình một cách đầy và không tự bảo vệ được chính mình, cho nên các em là đối tượng đặc biệt cần được ưu tiên. Do đó, trẻ em khuyết tật có các quyền đặc thù như: quyền được nhận làm con nuôi, quyền được học tập bình thường như mọi đứa trẻ khác và được chữa bệnh miễn phí… Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật yêu cầu:

Các quốc gia thành viên bảo đảm rằng trẻ em khuyết tật có quyền bày tỏ ý kiến một cách tự do về mọi vấn đề ảnh hưởng tới các em, ý kiến của trẻ em phải được cân nhắc thích đáng phù hợp với độ tuổi và sự trưởng thành của các em, trên cơ sở bình đẳng với các trẻ em khác, bảo đảm cung cấp cho các em sự trợ giúp phù hợp với lứa tuổi và với tình trạng khuyết tật để các em thực hiện quyền đó [38, Điều 7-3].

Dưới góc độ nguyên nhân gây ra khuyết tật, người khuyết tật đặc biệt như những thương, bệnh binh, những người có công với đất nước nên họ có những quyền được ưu tiên đặc biệt như: quyền được hưởng chế độ trợ cấp đặc biệt; quyền được ưu tiên đặc biệt khi thực hiện quyền được chăm sóc sức khỏe, quyền học tập, lao động và tìm kiếm việc làm…

Từ những đặc điểm riêng về quyền của người khuyết tật nêu trên cho thấy trong quá trình hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật cần phải chú

Ngày đăng: 16/12/2022